VÀI NÉT VỀ GIÁO DỤC CON EM NGƯỜI MỸ GỐC VIỆT
Để hội nhập với cuộc sống trên quê hương mới, chúng ta đã phải nhanh chóng hy sinh những truyền thống, phong tục tập quán của mình để tiếp nhận những thay đổi. Những cái mới, những giá trị xã hội, những đặc trưng văn hóa của người Âu-Mỹ nhiều khi đánh đổ hẳn hay làm đảo ngược những thành kiến lâu đời của dân tộc. Điều này đã làm cho rất nhiều cha mẹ thất vọng và hoài nghi thậm chí không thể chấp nhận nổi những thay đổi phong cách tương giao giữa cha mẹ và con cái, con cái với tha nhân. Phản ứng có thể là chấp nhận thầm lặng đau khổ, bỏ mặc, buông xuôi hoặc nệ cổ, cưỡng bức con em tuân thủ và gìn giữ những khuôn phép được cho là có giá trị truyền thống…
Những phản ứng nhất thời hoặc bằng phương thức có chủ tâm
nhưng không thích hợp đã làm cho cả hai bên - cha mẹ và con cái phân cực và hệ
quả là cùng leo thang chấp tranh, xung đột, thất bại và đau khổ. Trước khi đi
sâu hơn về những khó khăn trong việc giáo dục con em chúng ta trong thời đại
này mà gần nhất là ở nơi ta đang sống có lẽ chúng ta nên biết vài khác biệt về
đặc trưng văn hoá của chúng ta và của người bản xứ.
Người Mỹ rất hiếu khách và tôn trọng nhân bản có thể nói là
nhất thế giới; họ rất sẵn lòng hướng dẫn, giúp đỡ bất kỳ ai khi cần và sự đáp lại
chỉ là lời cảm ơn thông thường. Đây là thói quen nổi bật trong trong tương giao
của người Mỹ - khác với quan niệm bám rễ trong tương quan của số đông người Việt:
làm ơn để “tích phước”, giúp đỡ người vì nghĩ đến ngày mai sẽ được phúc đáp lại!
Trong giáo dục điều này có hẹp hòi, gò bó không, mỗi người chúng ta tự thẩm định
lấy. Ngay cả đối với thú vật người Mỹ cũng tỏ ra rất nhân đạo; họ rất coi trọng
bình đẳng và tự do cá nhân; họ có lối sống coi trọng thời gian và kế hoạch; họ
có tác phong công nghiệp; họ coi trọng “giấy trắng mực đen”; họ có tập quán dựa
vào luật pháp - họ rất tin tưởng ở luật pháp và hiếm khi thấy họ bỏ thời gian
mong chờ sự phân giải bằng lẽ phải thông thường, bằng lương tâm. Họ đã có trình
độ dân trí, ý thức tự giác và tinh thần trách nhiệm cao; là công dân thuần
thành trong xã hội có nền văn minh dân chủ pháp trị vững vàng nhất thế giới.
Trong khi đó người Việt chúng ta đã được hun đúc nhiều đời bằng
nền văn minh lễ trị; nay chúng ta lại đổi đời cùng sống chung, chập chững trong
xã hội mới – xã hội có nền dân chủ pháp trị. Người Việt trên dưới 90 % dân số sống
bằng nông nghiệp trong thời gian khá dài. Bên ruộng đồng, làng mạc, bên núi rừng,
sông biển thiên nhiên, chúng ta sống gắn bó với nhau bằng tình làng nghĩa xóm đầy
tính dân tộc. Trước đây chúng ta sống với nhau thường rất đơn thuần trong suốt
chiều dài lịch sử bằng lương tri, bằng tình người, tình đồng bào và luật pháp đối
với người Việt thường được xem là thứ yếu. Chính vì vậy mà hầu hết chúng ta ít
nhiều còn thói quen thường mong chờ ở tha nhân tình cảm thông nhân loại và sự
phán xét của lương tâm; khổ nỗi lương tâm không có điều khoản, số mục và mức độ
thưởng phạt thì lấy đâu mà luận! Ở một nơi mà “Thì giờ là tiền bạc” (Time is
money) chúng ta sẽ trở nên hụt hẫng, ngỡ ngàng. Về quyền lợi thực dụng thì
chúng ta có thể không kịp người nhưng sự khác biệt này không hẳn là điều tệ hại
mà ngược lại đây mới thật sự là văn minh – đó là văn minh tinh thần đáng cho
chúng ta tự hào. Ít nhiều, đây chính là chút dư âm của nền văn hóa bốn nghìn
năm, là đặc trưng của dân tộc Việt. Người ta thường bảo giáo dục con em giữ gìn
văn hoá dân tộc nhưng giữ cái gì và giữ như thế nào quả là một câu hỏi lớn vì
con em chúng ta đang sống và lớn lên ở đây.
Vì nhu cầu trật tự, an bình xã hội người ta không ngừng đặt
ra hàng khối luật lệ trong khi hàng ngày sống chung với nhau chỉ bằng lẽ phải
thông thường (common sense). Do đó sự đóng góp nhiều nhất vào căn nguyên an
bình thuộc về những ai còn lương tri mẫn nhuệ, lương năng cao.
Thật vậy, thông thường không phải ai cũng hiểu hết, nhớ hết
luật lệ. Luật pháp nghiêm minh dựa trên nền tảng công lí và sự bình đẳng, ý thức
quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ và ý thức trách nhiệm của người dân là những điều
căn bản và thiết thực để có được trật tự xã hội. Nhưng luật lệ có hay đến mấy
cũng không bao giờ đáp ứng được hết nhu cầu mang lại an lạc cho cá nhân vì dù
sao nó cũng vẫn từ bên ngoài, là biện pháp thuộc xã hội nhằm sửa trị, lập lại
và duy trì trật tự. Trong khi đó nguồn gốc của sự xáo trộn bất an là do ở chính
con người – đó là lương tri bị bít lấp.
Con người sống chung với nhau qua ý thức về lẽ phải thông
thường, căn bản lương tri chứ không ai hiểu biết luật lệ trước để dựa theo đó
mà xử thế tiếp vật. Bất kỳ ở đâu, vào thời điểm nào, sự thiếu mất căn bản này
đã tạo nên sự dựa hẳn vào luật pháp. Trong cuộc đua tìm hạnh phúc, con người đã
tự làm khó cho mình bởi nơi đâu có lòng tham lam lợi lộc, danh vọng và quyền
uy; có đố kỵ, căm thù; có trí trá, gian manh, si mê lầm lạc ở chốn thị phi thì ở
đó có mâu thuẫn, xung đột, chấp tranh, va chạm, sợ hãi, dằn vặt, thống khổ. Hạnh
phúc không phải chỉ bị những chướng ngại do chính con người tự đặt trên mặt đường
ngay từ bước đầu mà còn tự tàn phá bên trong của chính mình. Con người vẫn
không ngừng chế thắng lẫn nhau bằng những khe hở của luật pháp. Khi có trở ngại,
bất hòa trong tương giao, hơn thiệt một tí cũng kéo nhau ra toà! Cái tuyệt diệu
nhất vẫn thường hằng ở chỗ đơn giản quen thuộc và bình thường nhất; đó chính là
lương tri – là lẽ phải thông thường. Thế nhưng, cuộc sống quay cuồng bởi nhu cầu
vật chất và những nỗi sợ hãi không rời đã khiến cho lương tri con người và luật
pháp thường đặt lên bàn cân chọn lựa đóng, mở. Nếu bằng luật pháp mà giành được
phần thắng về mình thì con người ngày nay rất sẵn sàng đóng cửa lương tri! Sự
va chạm, mâu thuẫn, xung đột, chấp tranh thường xuyên trong đời sống đã khiến
con người dựa hẳn vào cái đúng giả tạm từ bên bên ngoài và hầu như việc xử thế
tiếp vật trong đời sống hàng ngày cũng phó thác cả cho sức mạnh của luật pháp.
Thật vậy, sự quán chiếu soi rọi lời nói và hành vi nhất cử nhất động trong xử
thế tiếp vật của mình hầu như chỉ còn là việc làm của các thiền giả, các nhà
tu!
Ngày nay, ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ,
khoa học kỹ thuật phát triển tột đỉnh phi thường gần như có thể nuốt chửng thời
gian và cả ý nghĩa cuộc sống của con người. Con người đang có nguy cơ bị máy
móc hoá ngày càng cách ngăn và tình yêu thương có thể ngày càng trở nên chai
lì, khô cạn. Những ai còn giữ được căn bản đạo lý làm người – đức nhân mà Khổng
Tử bảo là cung kính, khoan hậu, tín nghĩa, cần mẫn và từ ái - thì không mấy khi
phải đối đầu với những rắc rối phiền nhiễu khó hoà giải trong tương giao, hoặc
ít ra cũng góp phần tạo cho xã hội tốt đẹp hơn. Cốt lõi đơn giản nhưng tuyệt vời
của đức nhân [Nhân: (仁) theo từ nguyên gồm chữ nhân (人) là người và nhị (二)
nghĩa là hai] Đây là căn đức và cũng là nguyên lý hễ đầy quá thì tràn, hễ
nghiêng quá thì đổ. Quân bình là nghệ thuật tuyệt diệu của nhân sinh mà trong
suốt quá trình trưởng thành của con người, giáo dục tương giao nhân bản không
nên thờ ơ, xa rời.
Giáo dục bây giờ rất khác xưa, và đã thật sự trở thành mối
băn khoăn không nhỏ cho những ai để tâm đến đời sống tinh thần của con em mình.
Cái khó khăn lớn nhất trong việc giáo dục con em chúng ta
không còn ở chỗ thiếu phương tiện vật chất, cơm áo, gạo tiền, sách vở mà
nghiêng hẳn về mặt tinh thần, nhất là đối với người Mỹ gốc Việt. Thứ nhất là sự
mất quân bình giữa tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật và giáo dục nhân văn.
Giáo dục căn bản làm người tức là giáo dục “nhân đạo” có tính tiệm tiến, cần có
thời gian để thẩm thấu nhưng trong điều kiện hiện tại thật khó hoàn thiện. Và
dù ta “ngốn ngấu” cho bằng được thì vẫn không sao đuổi kịp để lập lại quân bình
với sự phát triển khoa học, đặc biệt là ở lãnh vực thông tin. Con người phát
minh khoa học kỹ thuật nhanh đến mức vượt quá sức tưởng tượng; những thành tựu
này đem lại rất nhiều phương tiện lợi ích cho đời sống nhưng dĩ nhiên nó cũng
mang theo những bất lợi không nhỏ chút nào. Đây là nguyên lý bất biến – theo
sau ánh sáng chói thì có bóng tối cũng dày. Nếu không khéo kịp thời chỉnh đốn lại
chính con người thì những tiến bộ này sẽ làm chủ và con người buộc phải quay cuồng
như chiếc máy học hỏi để bắt kịp đà phát minh phương tiện kỹ thuật thay vì sống
hạnh phúc với ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Chính phủ không ngừng cải tiến
ngành giáo dục nhưng hầu hết chỉ chú trọng đến ngân sách, hướng nghiệp, chuyên
môn và luật lệ để giữ gìn trật tự, ngăn ngừa những hành vi thô bạo còn về giáo
dục con người thì vẫn đặc biệt tin tưởng ở nền giáo dục nhân bản tốt đẹp cố hữu
đã thành nếp tương giao trong đời sống thường nhật chan hòa trong quan hệ gia
đình và trường học. Tuy nhiên, nếu không coi trọng và đối diện với những đổi
thay, xáo trộn, mất thăng bằng hiện ngày càng lớn do sự tương tác, pha trộn xô
bồ những phong tục tập quán và dị biệt tôn giáo của nhiều dân tộc trên khắp thế
giới và do nhu cầu cuộc sống vật chất thúc bách buộc phải đuổi kịp phát minh
khoa học thì chắc chắn một ngày mai không xa sẽ có nhiều vấn đề khó khăn chồng
chất cần đặc biệt quan tâm. Thứ hai là những giá trị truyền thống, tập quán
giáo dục đơn sơ thuộc dân tộc không còn mấy phù hợp và không đủ sức thuyết phục
để ứng phó với tình hình và môi trường giáo dục con em hiện nay, nhất là khi
cha mẹ phải đối đầu tiếp nhận và thanh lọc khối lượng thông tin hỗn độn, khổng
lồ từ những nơi phồn hoa đô hội đến các hang cùng ngõ hẽm đói rách bần cùng, từ
nơi văn minh khoa học tột đỉnh và cả ở nơi con người còn cuộc sống bán khai hay
sống đời nô lệ dưới các chế độ chính trị phi nhân. Thứ ba là cha mẹ chẳng những
thiếu vốn kiến thức về tâm lý giáo dục con em mà còn không có thời gian để
nghiên cứu, học hỏi cho nên một số không tránh khỏi băn khoăn, lúng túng về
phương hướng giáo dục con em sao cho phù hợp đôi bên, gia đình Việt nam và cuộc
sống mới bên ngoài; số còn lại không nhỏ vẫn quay về với lối cổ truyền – “yêu
cho roi cho vọt,…”, nuôi dạy con em theo thói quen như ông bà cha mẹ ta đã từng
làm trong khi con em chúng ta đang sống trong môi trường mà tương giao giữa con
người chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những phong cách sống xa lạ và đa dạng. Khó
khăn này đã mang lại không ít thất bại đắng cay, chia lìa, đổ vỡ quan hệ giữa
cha mẹ và con cái, khiến con em phải rơi vào ngõ cụt không lối thoát hoặc buông
mình theo bè nhóm xa rời cuộc sống bình thường, bất chấp tương lai đen tối. Giá
trị gia đình nhiều khi bị lật tung vì đối đầu với khó khăn khác biệt văn hoá giữa
các thế hệ Việt-Mỹ bằng phản ứng không thích hợp. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, điều căn bản vẫn là chúng ta cần làm gì để con em chúng ta cảm thụ được đức
nhân, có tư cách tốt, phẩm chất quý để chúng trưởng thành với tâm hồn trong
sáng, vững chãi với nhân sinh quan nhân bản, vượt qua những bản năng thấp hèn.
Được vậy thì mặc cho những băng hoại nhiễu nhương của nhân loại trong thời hiện
đại, chúng ta không còn lo ngại con em chúng ta bị lôi kéo trở nên tha hoá, hư
hỏng.
Đến đây, chúng ta có thể kể sơ những con số đáng ngại về sự
bạo hành bằng súng đạn ở học đường. Theo tài liệu thống kê cho thấy con số này
tăng dần trong những thập niên qua. Thập niên 1960 17 vụ, thập niên 1970 23 vụ,
thập niên 1980 30 vụ, thập niên 1990 40 vụ, thập niên 2000 48 vụ và thập niên
2010 mới chỉ trong vòng 3 năm, từ 2010 đến tháng 3 2014 đã lên đến con số kỷ lục
96 vụ.
(Theo:
http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_school_shootings_in_the_United_States)
Chính trị có thể đổ lỗi cho súng đạn nhưng thực chất của vấn
đề không phải chỉ là ở đó. Vũ khí không biết nói, không có suy nghĩ và không thể
quyết định được điều gì nếu không có những con người tha hoá. Một điều vô cùng
quan trọng mà ít ai để ý, đó là trong đạo trị nước, ở đâu và thời nào mà “nhân
đạo” - đạo làm người được coi trọng như từ xưa trong thời phong kiến và nay trong
các nước có chế độ tự do dân chủ, tư cách, tác phong, thái độ xử thế cũng như mỗi
lời nói của người lãnh đạo trước quốc dân có tầm ảnh hưởng góp phần rất lớn
mang lại an bình hoặc ngược lại rất dễ dàng kích động phân rẽ, chấp tranh mang
đến khổ đau tràn lan sâu rộng và lâu dài cho xã hội. Riêng ở nước có chế độ độc
tài, độc đảng toàn trị thì khía cạnh nhân đạo, và vấn đề này không cần bàn đến
vì vị trí của “con người” trong đời này và ý nghĩa cuộc sống đã phải nhường chỗ
cho chủ nghĩa lý tưởng thiên đàng trên trái đất một ngày không bao giờ tới.
Những giá trị nhân bản, lẽ phải và tình yêu, sự nối kết,
quan hệ tương giao tốt đẹp của nhân loại không dễ gì một sớm một chiều có thể
xây dựng được. Trong khi kích hoạt, nâng lên và giữ gìn thật khó khăn, tốn nhiều
tâm huyết và thời gian thì tiếc thay những giá trị ấy lại dễ dàng bị đổ đi
trong phút chốc, không nuối tiếc vì những chấp tranh và mưu toan chính trị! Quyền
hành, lợi lộc, danh vọng làm cho con người ngày càng chia rẽ, cách ngăn, xung đột,
chấp tranh và thống khổ. Cái tâm bi mẫn không còn nhạy bén, lòng trắc ẩn chai
lì, khô cạn và tình yêu chỉ còn lại như sỏi đá khô cằn trên dòng suối lấp mất đầu
nguồn. Tương giao nhân loại ngày càng trở nên khô cằn, máy móc vận hành bởi hấp
lực của quyền uy, danh vọng và lợi lộc. Đây quả là điều đáng ngại vô cùng!
Trong khi có nơi người ta dùng cả trẻ em vì mục tiêu lý tưởng,
chính trị nào đó. Một lần - không bao giờ có nữa – chúng sẵn sàng tự nguyện cảm
tử, vứt đi sinh mạng, thịt xương văng từng mảnh, máu me vung vãi khắp nơi để giết
được nhiều người khác không cùng chí hướng và trẻ ấy được vinh danh “anh hùng”,
được ghi vào sử sách của họ thì ngược lại ở đây phải chăng chúng ta nên dạy con
em chúng ta rằng tự hủy hoại thân xác dù một giọt máu cũng là bất hiếu; là bội
ân với cha mẹ, tổ tiên và trời đất; là điều tồi tệ; là hèn nhát; dạy cho chúng
không vì bất kỳ lý do gì hay chủ thuyết nào mà tự hủy hoại. Quí trọng thân tâm
là bước đầu ý thức về mình và hạnh phúc.
Chúng ta không khỏi
đau lòng trước những sự kiện ấy và không khỏi lo cho tương lai của con em mình.
Thời gian quan tâm đến con cái chúng ta vẫn còn thiếu. Điều mà chúng ta cần là
mở lối cho con cái chúng ta nẩy mầm chân-thiện-mỹ và tình thương cũng như tiêm
cho chúng chất miễn nhiễm vĩnh viễn tinh hoa của nhân loại.
Thật vậy trong tình
thương uyên nguyên tuyệt không có hình tướng để phân biệt, kỳ thị. Chính tình
thương ấy giúp ta nhạy bén nhận biết tức thì, thấu cảm những xung đột khổ đau của
người và chỉ có chính nó mới có khả năng thúc đẩy ta mang niềm vui đến cho họ.
Nó là thứ không phải tìm cầu, không phải luyện tập, không có tại vì, không có
cho nên và hoàn toàn không có mốc điểm thời gian. Tình thương uyên nguyên ấy
luôn hiện tiền cùng sự sống. Một khi có bất kỳ lý do, duyên cớ hay tiêu điểm gì
chen vào, tình thương ấy tức thì không còn nữa.
Con em của chúng ta không thể bị lý tưởng tương lai của
chúng ta uốn nắn vào một khuôn khổ nhất định để buộc nó “sẽ là” trong lúc con
người “hiện là” của chúng là một chỉnh thể độc lập và toàn vẹn. Con em chúng ta
cần được sự giáo dục đích thực nhân bản, nuôi dưỡng tình yêu thương này, khuyến
khích sự hiểu biết về cá nhân của chúng, giúp chúng biết những gì mà chúng cần
lĩnh hội và tạo môi trường cho chúng tự do phát triển một cách đầy đủ như con
người đúng nghĩa độc lập và toàn vẹn. Nếu được như thế, chúng ta sẽ nhẹ gánh vì
con em chúng ta đã tự truyền thừa được tình yêu thương và lương tri đi trước luật
pháp; chắc chắn chúng sẽ dễ dàng tìm thấy thanh tâm an lạc cho cá nhân và trưởng
thành những nhân tố căn bản cho sự an bình trong nhân loại cho dù bất kỳ ở đâu,
trong thời gian, môi trường và hoàn cảnh nào.
Một khi đã là cha mẹ ‘người ta’ rồi, chắc chắn bạn có những
cảm giác mới mà các bạn chưa bao giờ tưởng tượng được. Bạn không kể hết sự cảm
kích khi bạn có trong lòng bàn tay một sinh mạng mà bạn đã đem đến cho thế giới
này. Tình yêu thương của cha mẹ muốn trao ra cũng như trách nhiệm mà bạn muốn
tình nguyện gánh lấy không thể nào tả hết. Bạn có nhận ra vì sao bạn thật sự cảm
thấy hạnh phúc không? Có khi nào bạn để ý đến điều này không? Hạnh phúc ấy
không đâu khác hơn là do tình thương yêu tự nhiên trao ra không bờ bến, và một
tấm lòng hoan hỉ muốn được nhận những trách nhiệm làm sao cho đứa bé tí hon này
lớn lên thành người tốt cho chính nó. Chỉ có thế thôi. Và quà của bạn là bạn
sung sướng khi thấy bé lớn khôn từng ngày; bạn vui và quên đi ưu phiền với tiếng
cười nói và những cử chỉ hồn nhiên của trẻ thơ. Bạn phải vất vả chăm sóc con
cái khi chúng không được khỏe; bạn xót xa buồn phiền cưu mang dù con mình lỡ hư
hỏng.
Có khi nào bạn nghĩ rằng ta nuôi bé vì mong mai kia khi lớn
lên nó sẽ đáp đền công ơn của ta hay không? Nếu có thì quả là một chuyện bất
thường: bạn không còn thực hiện thiên chức cha mẹ của bé nữa mà là một người ‘đầu
tư’ và chắc chắn đứa bé ấy sẽ trải qua những tháng ngày gồng gánh đắng cay mà bạn
sẽ tròng vào cổ để nó trở thành công cụ của mình; bạn nhồi nhét nó vào một mô
hình có sẵn mà bạn nghĩ rằng chỉ có khuôn mẫu ấy mới tốt, mới có lợi cho bạn
hay cho dù bạn nghĩ rằng có lợi cả cho nó. Như thế là bạn đã quên hẳn rằng nó
là một con người toàn vẹn và độc lập. Nuôi dạy con chỉ vì muốn mai kia chúng
mang lại cho ta danh vọng, lợi lộc hay của tiền quả là một sự tàn nhẫn, vô tình
và ích kỷ hơn mọi sự ích kỷ thông thường.
Tình thương mà bạn trọn vẹn trao cho và tinh thần trách nhiệm
mà bạn gánh lấy cho những con người ấy từ tấm bé đến trưởng thành, chính là
nuôi dưỡng và giáo dục chúng theo đúng tinh thần của thiên chức ấy. Nếu bạn là
nhà giáo dục, nhà tâm lý… và nếu thấy rằng mình có thừa trình độ giáo dục con
cái thì đó quả là phúc báu cho bạn, cho con em và chắc chắn sẽ mang lại lợi ích
cho nhân loại không nhỏ. Mong rằng xã hội ngày càng có nhiều người đặc biệt
quan tâm đến giáo dục như bạn.
Vĩnh Tường
No comments