TÔN CHỈ DẠY VÀ HỌC TIẾNG VIỆT Cho Trẻ Gốc Việt
TÔN CHỈ DẠY VÀ HỌC CHO TIẾNG VIỆT
Cho Trẻ Gốc Việt
TÔN CHỈ DẠY VÀ HỌC
Trường Việt Ngữ
(Hải Ngoại)
A. Tổ Chức:
1.
Tuyệt
đối tôn trọng tinh thần văn minh, tự do, dân chủ. Phân công phân nhiệm rõ ràng, không theo kiểu
chế độ thủ trưởng, tập quyền.
2.
Tổ
chức trường, lớp theo lề lối giáo dục sở tại. - Tuyệt đối không theo lối tổ chức
ở xã hội khác, chẳng hạn như kiểu mẫu ở Việt nam để tránh làm tăng thêm khác biệt
trong suy nghĩ và cách sinh hoạt có thể gây xung đột, trở ngại cho sự hội nhập,
phát triển độc lập cá nhân của con em trong khi chen vai tiến bộ cùng các dân tộc
khác.
B. Nội Dung:
1.
Lấy
NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ , TÍN làm trọng
để tạo căn nguyên, giềng mối an bình hạnh phúc cho gia đình, xã hội.
2.
Lấy
NHÂN BẢN, TỰ DO làm nền tảng trong
bài giảng, bài dạy - Luôn luôn tôn trọng nhân phẩm của con em như một con người
độc lập toàn vẹn, tự do phát triển.
3.
Lấy
CHÂN, THIỆN, MỸ làm cứu cánh để giúp
con em hướng thượng vượt trên bản năng thấp hèn của các loài thú vật.
4.
Lấy
BI, TRÍ, DŨNG trong quan hệ tương
tác, ứng xử với tha nhân góp phần giúp các em phát triển thuận lợi trong quá
trình hoàn thiện nhân cách.
5.
Tôn
trọng SỰ THẬT LỊCH SỬ của người tỵ nạn cộng
sản khi có bài vở hoặc có điều liên quan cần đề cập đến nguồn gốc của các em.
Trường sẽ tuyệt đối trung thực với lịch sử.
6.
Nội
dung bài vở LÀNH MẠNH, THỰC TIỄN,
phù hợp với đời sống thực tế hiện tại.
7.
Tuyệt đối KHÔNG
NÊN
dùng sách vở soạn và in ấn tại Việt nam vì lẽ định nghĩa về con người khác
nhau, mục tiêu giáo dục khác nhau, nội dung giáo dục dĩ nhiên khác nhau. Nếu
không thì tai hại không lường kéo dài cho con em nhiều thế hệ tương lai. (xem
chi tiết trang 2)
C. Phương Pháp:
1.
Tổ
chức dạy và học, quan hệ giữa thầy cô giống như ở nước sở tại, (có thể tham khảo
cách sinh hoạt hàng ngày của con em ở trường lớp chính khóa), và không xa rời
hoa tinh hoa văn hoá Việt nam đã minh định ở nội dung trên.
2.
Giảng
dạy: Thầy cô dựa theo các phương pháp giảng dạy ở nước sở tại - tiên tiến - để giúp
cho con em mở rộng thêm hiểu biết chứ không làm trở ngại tư tưởng và câu nệ bỡi
những tập quán không còn thích hợp.
3.
Thầy
cô cố gắng tham khảo kiến thức chuyên môn đặc biệt về ngữ học, rút tỉa kinh
nghiệm cá nhân và luôn luôn cải tiến phương pháp giảng dạy.
4.
Nếu
có cơ hội và điều kiện, thầy cô cần tham dự các lớp huấn luyện sư phạm thực
hành cấp tốc, ngắn hạn để nâng cao khả năng, vừa giúp giảm thời gian vừa đạt hiệu
quả cao hơn trong giảng dạy.
QUÁ TRÌNH XÁC LẬP
TÔN
CHỈ CỦA TRƯỜNG VIỆT NGỮ
A. NHẬN ĐỊNH:
1.
Xét vì sự cần thiết giữ gìn tiếng Việt để dễ dàng nối
kết chặt chẽ, góp phần giữ gìn quan hệ tốt đẹp giữa các thế hệ ở phạm vi gia
đình và cộng đồng người Việt.
2.
Xét
vì sự cần thiết giữ gìn tiếng Việt để
góp phần vào việc bảo tồn nguồn gốc và phát huy tinh hoa văn hoá dân tộc Việt ở quê mới.
3.
Xét
vì con em Việt nam ở đây là công dân Hoa Kỳ (hoặc ở các nước tự do khác) có nguồn gốc đặc biệt, có cha
mẹ là người thuần Việt hoặc hợp chủng. Đối tượng đặc biệt vì đặc điểm tâm lý: hầu hết
99.9% ông bà, cha mẹ các em là người tị nạn cộng sản dù là vì kinh tế hay chính
trị cũng đều từ đó mà ra. Các bậc phụ huynh rất lo ngại con em của mình bị hướng
dẫn sai lầm. Họ xem con em là những viên ngọc qúi kết tinh bằng ý chí yêu chuộng
tự do vượt trên sinh mạng. Chúng là trụ cột tương lai gia đình, dòng họ và dân tộc. Vì
vậy trường được tồn tại và phát triển hay không nhờ vào sự hiểu biết đặc điểm
này. Vô tình hay hữu ý va chạm hay xem thường đặc điểm này sẽ dẫn đến hậu quả không lường.
Biết tiếng Việt hay không sẽ tức khắc trở thành điều phụ huynh không cần thiết.
4.
Xét
vì tương lai của các em tùy mức độ hội nhập nhuần nhuyễn vào xã hội HK để tranh
đua cùng các dân tộc khác.
5.
Xét
vì mục tiêu giáo dục tự do, coi trọng nhân bản - mỗi cá nhân là một đơn vị độc
lập và được giúp đỡ phát triển toàn diện, không lệ thuộc bất kỳ một chủ thuyết,
cá nhân lãnh đạo nào…
6.
Xét
vì phương cách tổ chức dạy và học cũng theo mục tiêu trên mà khác xa với lề lối
và nội dung giáo dục ở Việt nam. Quan niệm về con người, đánh giá về con người,
hình thức xã hội khác nhau thì mục đích và mục tiêu giáo dục nhất định khác
nhau và do đó mà cách tổ chức cũng như phương pháp dạy và học cũng khác nhau.
Đây là nguyên lý bất biến.
7.
Xét
vì: Thứ nhất, ở đây tiếng Anh là ngôn ngữ chính cho mọi dân tộc. Các em tiếp
thu, xây dựng kiến thức, được giáo dục và trưởng thành từ trường học hàng ngày
và mưu cầu hạnh phúc trong tương lai, tất cả đều bằng tiếng Anh. Tuy là người gốc
Việt nhưng phạm vi sử dụng tiếng Việt hạn hẹp hơn tiếng
Anh - trong phạm vi gia đình và cộng đồng người Việt. Kiến thức khoa học tự
nhiên và nhân văn phần lớn nằm trong ngôn ngữ Anh. Thứ hai, khi các em đã học,
đã biết nói, biết viết tiếng Anh các ơ năng phát âm của các em (lưỡi, răng, nướu,
cúa, luồng hơi, dây thanh âm…) và cách vận dụng đã quen với hệ thống tiếng nói
của người Anh, Mỹ. Chính vì hai lý do này mà về mặt
dạy và học, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ thứ hai mặc dù con em là người gốc Việt.
Cho rằng hay bắt buộc tiếng Việt phải là ngôn ngữ chính không khác nào từ chối
sự vươn lên của con em ở quê mới.
8.
Xét
vì sự phát triển văn minh không ngừng trong đời sống hiện tại ở nước tự do, nội
dung bài dạy cần cập nhật, hướng đến đạt mức thực dụng hàng ngày để nâng cao hiệu
quả: Làm sao cho các em có thể sử dụng ngay những gì vừa học. Điều này sẽ gây hứng
thú và tin tưởng cho cả con em lẫn phụ huynh.
9.
Xét
vì có điểm khác nhau giữa hai nền văn hóa Mỹ Việt, qua việc dạy tiếng Việt, dạy
cho các em cách đối nhân xử thế, tiếp vật thế nào để tránh sự nệ cổ truyền thống
gây nên sự xung đột với sinh hoạt với môi trường xã hội ở trường chính khóa. Điều
này chẳng những có ích lợi trong việc dạy và học mà còn đóng góp to lớn cho con
em và gia đình tránh xung đột, hội nhập hài hoà vào xã hội Hoa Kỳ để đạt thành
công tốt đẹp mà không mất đi bản sắc dân tộc.
10.
Ngoài
ra, nếu trường nằm trong phạm vi tổ chức của tôn giáo thì mong sao TÔN CHỈ (đề
nghị) chung cho con em người gốc
Việt
được quan tâm đặc biệt hoà nhập với triết lý, tinh hoa của tôn giáo ấy.
B. CHI TIẾT TÔN CHỈ DẠY VÀ HỌC của Trường Việt Ngữ
I.
Tổ Chức:
1.
Tất
cả các thành viên trong tổ chức trường học tuyệt đối không tự vượt quá quyền hạn
và nhiệm vụ của mình: tôn trọng tinh thần tự do, dân chủ; tuyệt đối không theo
kiểu chế độ tập quyền, thủ trưởng. Đây là lề lối sai lầm, lạc hậu, phản khoa học,
thủ tiêu sáng kiến, chậm tiến gây nhiều trở ngại cho sự phát triển.
2.
Đặc
điểm của giáo dục Hoa Kỳ là đem xã hội vào học đường. Các em tiếp cận hàng ngày
với lề lối ấy. Tuy chỉ các em chỉ có vài tiếng đồng hồ ở trường mỗi tuần nhưng ở đây cũng
không vì thế mà xem nhẹ cơ cấu tổ chức và cách sinh hoạt. Trường lớp KHÔNG tổ
chức theo kiểu ở xã hội khác, chẳng hạn như kiểu ở Việt nam: có lớp trưởng lớp
phó, ban trật tự, ban theo dõi… theo kiểu áp đặt quản lý lên con người - tập thể
hóa xã hội làm ngăn trở sự phát triển độc lập cá thể vì như thế sẽ tạo thêm sự
trở ngại cho con em chúng ta trong bước đường hội nhập vào xã hội hiện tại để
phát triển.
II.
Nội Dung:
Tuy chỉ dạy và học đọc - viết – nói – nghe tiếng
Việt nhưng đã nói đến dạy và học tức là nói đến đề tài có liên quan đến giáo dục.
Tầm ảnh hưởng của giáo dục đối với con người rất lớn và ảnh hưởng lâu dài chứ
không phải như tu bổ máy, sửa máy. Do đó, nhà trường không thể lơ là, xem nhẹ
mà phải đặt trên nền tảng:
1.
Lấy
NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ , TÍN làm trọng.
Đây là căn bản làm người. Đây là tinh hoa văn hoá của nhân loại, là giềng mối tạo
an bình cho xã hội trước khi phải dùng đến luật pháp. Xã hội nào đạp đổ hay xem
thường tinh hoa đức dục chắc chắn đạo đức sẽ suy đồi, con người sẽ thoái hoá,
xã hội sẽ mục ruỗng, băng hoại, nhiễu nhương nhiều thế hệ không dễ gì xây dựng
lại.
2.
Lấy
NHÂN BẢN, TỰ DO làm nền tảng trong lời
giảng, bài dạy. Xem con người là đơn vị độc lập, có ý thức và tự do. Con người
là tiêu điểm, nhân phẩm và hạnh phúc của con người phải được tôn trọng . Nguyên
tắc này chỉ có ở các nước có chế độ tự do thật sự.
3.
Lấy
CHÂN, THIỆN, MỸ làm cứu cánh để con
người hướng thượng vượt trên bản năng thấp hèn của các loài thú vật. Tinh thần
tôn trọng sự thật, không chấp nhận sự dối trá -
Yêu quí và nâng cao giá trị điều thiện - Quí cái đẹp trong tâm hồn cao
thượng. Đây là phẩm chất mà các tôn giáo không ngừng nâng cao cho nhân loại.
4.
Lấy
BI, TRÍ, DŨNG trong quan hệ tương
tác, ứng xử với tha nhân: Tình yêu thương đồng loại và vạn hữu – Tinh thần sáng
suốt, quyết định thông minh đúng đắn trong các trường hợp, không để bị lừa bịp, bị
lợi dụng bỡi có lòng tốt – Rèn luyện dũng khí thắng chính mình trước cám dỗ của lợi lộc,
quyền uy, không nhu nhược khuất phục bạo quyền mà quyết định sai lầm dẫn đến hậu quả khổ đau cho người khác. Đây là cái đức làm cho con người
thật sự trưởng thành.
5.
Tôn
trọng SỰ THẬT LỊCH SỬ của người tị nạn cộng
sản khi cần đề cập đến nguồn gốc của các em trường sẽ tuyệt đối trung thực
với lịch sử. “Ông bà cha mẹ các em, các em có mặt ở đây là vì phải tị nạn cộng sản chứ
không phải vì những lý do nào khác như sự tuyên truyền phỉ báng”. Đây là vấn đề
vô cùng quan trọng, có quan hệ đến sự tồn vong của dân tộc và danh dự nhiều đời
sau của công dân gốc Việt khi cùng sánh vai với các dân tộc khác ở bản xứ. Chẳng
những thế, với mục tiêu gần, điều này sẽ tạo niềm tin và sức mạnh vươn lên của
trường. Sơ sót, thiếu thận trọng trường sẽ rơi vào tình thế tấn thối lưỡng nan
dẫn đến thụt lùi, thất bại rất nhanh và khó bề sửa chữa.
6.
Nội
dung bài vở LÀNH MẠNH, THỰC TIỄN KHÔNG
TRÁI NGHỊCH NHÂN ĐẠO song song với hiểu biết các em đang lãnh hội trường
chính khóa để tăng thêm sự hữu dụng tức khắc, tạo niềm hứng thú cho cả con em
và phụ huynh.
7.
Tuyệt đối KHÔNG
NÊN
dùng sách vở soạn và in ấn tại Việt nam vì lẽ định nghĩa về con người khác
nhau, mục tiêu giáo dục khác nhau, nội dung và phương pháp giảng dạy dĩ nhiên
khác nhau. Nếu không thì sự tai hại thấm
dần đến mức không lường cho tương lai nhiều thế hệ của con em và cộng đồng người
gốc Việt. Ở Việt nam xã hội chủ nghĩa, cái nhìn về con người và tư tưởng được
minh định rõ ràng theo học thuyết cộng sản Marxism Leninism. Người ta đặt khuôn
mẫu xã hội trước rồi kiềm chế, uốn nắn, nhào nặn con người theo một mẫu vừa khớp
vào như bộ phận của một chiếc máy; con người mất dần tính linh động, trở thành
công cụ chỉ để phục vụ cho chế độ và chủ nghĩa ấy mà thôi. Trong khi đó theo chiều
hướng ngược lại, ở các nước tiên tiến tự do dân chủ thật sự, giáo dục lấy tinh
thần nhân bản làm nền tảng, xem con người ngay ở đời mình là cứu cánh, mỗi con
người sinh ra là một đơn vị độc lập. Giáo dục là tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và hướng
dẫn mọi cá nhân phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách, trưởng thành và tự
khai mở hết tiềm năng của mình vào việc mưu cầu hạnh phúc cá nhân và nhờ đó mà
xã hội tiến bộ.
III.
Phương Pháp:
1.
Trường
Việt ngữ chỉ giảng dạy một môn duy nhất là tiếng Việt. Các thầy cô thường là những
người có tấm lòng vàng chịu bỏ thời gian qúi báu của cá nhân để làm thiện nguyện
và hầu hết các thầy cô đều làm việc có tính nghiệp dư. Trong trường hợp này, phụ
huynh cần thông cảm cho những khó khăn của các thầy cô và nên tạo điều kiện thuận
lợi để giúp đỡ. Điều mà phụ huynh có thể mong mỏi ở đây là quí thầy cô cố gắng
nâng cao khả năng bằng cách tự tham khảo, tự học hỏi:
2.
Cách
thức tổ chức lớp - ở các nước sở tại. (có thể qua tham khảo cách sinh hoạt hàng
ngày của con em ở trường lớp chính khóa). tuyệt đối không tổ chức theo kiểu ở
Việt nam – chẳng những không phù hợp với nền giáo dục tự do nhân bản mà còn tạo
thói quen làm tăng thêm mâu thuẫn khiến các em khó hoà nhập với đời sống học đường
ở đây.
3.
Mong
quí thầy cô cố gắng học hỏi các phương pháp giảng dạy ở nước sở tại - tiên tiến,
là thế nào để giúp con em mở rộng thêm hiểu biết mà không làm trở ngại tư tưởng
và tạo sự câu nệ bỡi những tập quán không còn thích hợp.
4.
Mong
quí thầy cô cố gắng tham khảo kiến thức chuyên môn về ngữ học Việt nam như một
sinh ngữ mới, rút tỉa kinh nghiệm cá nhân và luôn luôn cải tiến phương pháp giảng
dạy.
5.
Nếu
có cơ hội và điều kiện thì nên tham dự các lớp sư phạm cấp tốc, ngắn hạn để nâng
cao khả năng, giảm thời gian và đạt hiệu quả chắc chắn và cao hơn.
Nhân
việc dạy con em của mình, xin đề xuất tôn chỉ chung này mong góp chút sức mọn
cho tương lai con em của những người có cùng lịch sử tỵ nạn.
Quí
anh em nào có cùng tấm lòng muốn dấn thân đóng góp giải tỏa nổi trăn trở của
các bậc phụ huynh nhưng bản thân chưa kinh qua sư phạm, và muốn tham khảo ý kiến
chuyên môn xin ghé vào trang nhà để thạm khảo hoặc liên lạc tác giả - nhà giáo
tốt nghiệp Sư Phạm trước 1975 trong chế độ VNCH.
Lee Duong
No comments