Không Đành Cho Mượn
Vĩnh Tường (Trích trong Những Cánh Chim Hải Âu)
Từ sau ngày miền Nam mất, Thành đã quyết định từ bỏ nghề giáo vì nó
không còn tải đạo như xưa, giúp con người tự do phát triển toàn diện để mưu cầu
hạnh phúc bất kỳ ở đâu và thời nào. Nay
giáo dục hiển nhiên trở thành công cụ để rèn con người sao cho vừa học thuyết
Mác-Lênin, đúc nặn con người cho vừa một khuôn mẫu xã hội định sẵn. Giáo dục
như thế chắc sẽ tàn phá nhân gian nhiều thế hệ chứ không phải như cấy cày.
Thành nhất định không tạo nghiệp, gieo nhân chẳng lành. Nhưng nhượng bộ, tự rút
lui cũng không dễ gì được.
Một hôm, đột ngột Thành có giấy gọi của Phòng Giáo Dục yêu cầu trình diện
Trưởng phòng và Bí thư đảng ủy. Lúc ấy không biết ‘bí thư’ là chức gì và quyền
hạn ra sao nhưng nghe chữ “bí” Thành nghĩ chắc là người có quyền uy lắm. Họ bảo
Thành phải “thành khẩn” kê khai lý lịch đến ba đời và nghề nghiệp chuyên môn. Họ
còn vặn lý do nào khiến Thành không kê khai sớm. Thành điềm tĩnh trả lời: vì
sinh ra, lớn lên, học hành và được đào tạo trong chế độ trước, sự hiểu biết và
nghề ấy không còn thích hợp nữa nên Thành đã quyết định về làm nông. Họ đề nghị
Thành “đăng ký” xin đi dạy học lại. Thành chần chừ nhưng rồi ngay sau đó Thành
không thể nào dám từ chối khi nghe câu nói của ông bí thư: “Làm việc cho địch thì được, còn làm cho cách mạng, nhân dân ta không lẽ
anh từ chối à? Nếu anh nghĩ vừa học vừa làm không được thì chúng tôi gửi anh đi
học tập cho tốt rồi về hãy làm cũng chẳng muộn”. Thật khổ cho cái nghiệp!
Vì cái xác phàm, chuyến này Thành phải đành thua!
Mấy hôm sau, Thành nhận giấy gọi đi dạy ở trường Bổ Túc Văn Hóa. Ở đây học
viên toàn là người thất học, cán bộ, du kích, con của cán bộ tập kết…, những
người hoạt động cách mạng, những khuôn mặt lạ lâu nay ở trong rừng, trong bóng
tối. Họ đều là đoàn viên hay đảng viên. Chỉ nhìn dáng dấp chắc chắn ai cũng nhận
ra họ là người của cộng sản. Càng ngày Thành càng chán ngán, càng ghét từng buớc
chân của mình khi bước vào lớp, ngán quá chừng những ngày tháng chôn chân hoang
phí trong môi trường mà Thành phải đóng kịch, dè dặt, đứng đi, cười nói, suy
nghĩ trong khi giảng dạy sao cho phù hợp. Thành hoàn toàn không được sống với
cái thật trong lòng dù chỉ một chút. Biết
rằng ở đây hay ở đâu cũng vậy, không dễ gì có được những tháng ngày đẹp đẽ như
xưa, nhưng lòng Thành mãi dằn vặt, không sao chấp nhận nổi. Thành chỉ còn vỏn vẹn
một niềm vui, một lý do để sống đó là tình yêu gia đình. Khi nghe tin Thành đi
dạy lại, cha Thành tặc lưỡi tỏ ý lo cho Thành rất nhiều. Ông thường dặn Thành
khi đi khai hoang hay lao động chung với trường Thành phải nhớ đừng ngủ hoặc nếu
có thì đừng nằm gần người khác vì lời nói trong giấc mơ cũng có thể làm hại đến
mình!
Một hôm, “đồng chí” Hiệu trưởng gọi Thành lên văn phòng để nhắc nhở
riêng. Ông bảo Thành nào là ra sức học tập các đồng chí học viên về tư tưởng
cách mạng, phải hớt tóc ngắn hơn, không nên để mai xanh, quần phải nhỏ ống hơn,
ngắn hơn, phải gọi tất cả học viên hay mọi người trong trường là đồng chí,
không được đội mũ có “mái” (mũ lưỡi trai) vì Mỹ ngụy không còn nữa. Ông ta còn
nói như thuộc lòng rằng Mỹ ngụy có ý đồ cho người ta đội mũ loại này để che khuất
tương lai!… Đây là lời cảnh báo lần thứ nhất chắc vì sự khác biệt của Thành đã
làm mọi người ở đây ngứa mắt. Dần hồi Thành phải dè dặt tuân thủ một số đòi hỏi
để sinh tồn. Đây là thời gian mà con người phải khép cửa lương tri, sống bỉ ổi,
lừa dối ngay cả chính mình, sống để chứng kiến và lặn hụp trong tang thương,
xung đột, khổ đau khốn nạn không sao quên nổi. Tuy vậy, để giữ nguyên tắc của
mình, thứ nhất điều Thành có thể làm là không bao giờ đụng đến hay chụp cái nón
cối “cộng sản” lên đầu hoặc cầm cờ búa liềm; thứ hai, tư tưởng Marxism không thể
nào đánh thủng thành trì nhân bản và tự do của mình. Khi nghe họ đe rằng bánh
xe lịch sử sẽ nghiền nát những kẻ chần chừ, Thành cười thầm, cảm ơn câu nói cho
mình thêm sức sống để hy vọng, đợi chờ lẽ đạo vì tin rằng bánh xe lịch sử nhất
định không dừng ở đây. Thành cũng sớm biết Thành bị đưa vào đây là do thứ nhất,
họ đã xét và rất cần khả năng của Thành; thứ hai, vì lý lịch tệ hơn lý lịch nhiều
đồng nghiệp. Làm việc ở đây có khác nào Thành bị đưa đi tẩy não bởi vì học viên
Thành dạy hàng ngày hoàn toàn là người cộng sản. Họ không sợ Thành ảnh hưởng đến
học viên, đến người của họ mà có ý dùng học viên để nhồi tư tưởng cộng sản cho
Thành trong giao tiếp, họp hành hàng ngày. Xét cho cùng, đây là chỗ Thành tạm
thời ẩn thân vì thứ nhất, con người và hoàn cảnh ở đây không dễ gì thay đổi được
tư tưởng của mình. Sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về, Thành không màn danh vọng, địa
vị hay lợi lộc, một chút cũng không vì đó bao giờ cũng là cạm bẫy. Cũng may là
không ai bắt Thành phải mong cầu những thứ ấy. Thứ hai, dạy ở đây Thành đỡ phải
mang tội đầu độc bởi vì dù sao thì học viên là những người đã hoàn toàn được
nhuộm đỏ - không phải do Thành, và Thành cũng không có gì phải áy náy bởi mặc cảm
tội lỗi. Khác với những người dạy trường phổ thông, dù sao thì họ cũng là những
người trực tiếp đầu độc trẻ thơ bằng những bài thưởng công giết Mỹ, diệt ngụy,
vót chông, làm bẫy; những bài tính bao nhiêu thằng sụp hầm chông của em, bao nhiêu thằng đổ ruột,
chết tốt, bao nhiêu thằng còn ngo ngoe để mà hãnh diện; hoặc những bài tập đọc,
học thuộc lòng mà Thành không tưởng tượng nổi con người có thể bịa ra những
chuyện kinh tởm đến thế để tuyên truyền, đầu độc trẻ thơ trong trắng. Nghĩ đến
hệ quả mà xã hội sẽ gánh chịu trong tương lai mà Thành không khỏi rùng mình.
*“Quân Mỹ Diệm ăn thịt người”, “Trâu cũng đánh Mỹ”, anh hùng Lê Văn Tám, Kim đồng,
Cô bé vót chông, Trừ văn Thố lấy thân mình lấp lỗ châu mai…
Hình chụp ba trang tiêu biểu trong sách Giáo dục công dân của Cộng sản sau năm 1975) |
* * *
Một ngày không sao quên được.
Bước vào bên trong cổng trường, hôm nay Thành đỡ phải nín thở khi đi qua
cửa văn phòng như mọi ngày. Phía trước, sân trường cũng là đám rau xà lách, cải
cúc, rau lang, hành ngò xanh tươi quá cỡ; hôm nay lá không ướt tẩm mùi phân -
loại phân không tốn tiền mua từ nền văn minh mới nhập có cái tên ngồ ngộ đó là
“phân bắc” mà ở miền Nam xưa nay không ai biết đến. Thì ra tất cả “đồng chí”
đang bận rộn trong ngày giỗ “bác” của họ. Hôm nay là ngày chết của Hồ Chí Minh.
Không khí ở tất cả các lớp học nặng nề như người ta sắp đưa đám ma. Ai
cũng buộc miếng băng vải trắng trên đầu, có người băng trên nón cối. Lớp Thành
dạy, một cán bộ đứng lên xin Thành cho tất cả đứng tại chỗ mặc niệm trước khi học.
Thành đồng ý để anh hướng dẫn còn Thành nhanh chân xuống tựa lưng vào vách ở cuối
lớp. Khổ thật! Xong mặc niệm, hôm nay học viên chỉ kể lại cho nhau những mẫu
chuyện mình biết về “Bác” của họ. Mặt mày họ buồn rầu như người thường có cha mẹ
chết. Tiếng sụt sùi, thút thít, khịt mũi ngày càng rõ hơn. Thành thấy như mình
đang bắt đầu lên cơn sốt rét ngã nước, ớn lạnh sau lưng! Thành cố làm ra vẻ buồn
buồn. Một lúc không buồn nổi, Thành thấy tội nghiệp cho những “con người”, có
lý do để Thành kéo sệ hai mép xuống cho ra vẻ đồng cảm. Không được lâu, Thành
cho họ thời gian viết tâm sự ngày giỗ “Bác” để Thành có lý do xin ra ngoài. Có
một chỗ có thể đi một lát. Thành vào“nhà xí”, cái cầu tiêu khô ghê quá! Chỗ ấy
không lánh nạn được lâu, Thành chạy lên văn phòng cáo bệnh đau đầu và cố xin được
về nghỉ. Về đến nhà, Thành lên giường trùm mền và suy nghĩ một hồi lâu.Vợ
Thành bỏ đống củi xếp dở chạy vào hớt
hãi:
- Anh có sao không? Sao lại về sớm? Anh
bị bệnh hả?
- Đúng đấy em. Anh bị bệnh khó chữa lắm!
- Em phải làm gì đây?
- Không phải làm gì cả. Nhìn em và mấy
nhỏ là anh trở lại bình thường liền nhưng có ai hỏi thì em phải bảo là anh đau
đầu dữ lắm cho qua chuyện nha. Em biết không…
Nghe Thành kể hết câu chuyện “hết thuốc chữa” ở trường sáng nay, vợ
Thành hỏi ngay một câu thôi:
- “Úy Trời!” như vậy mấy đứa nhỏ mình phải
làm sao? Thành chỉ thở dài. Một câu hỏi lớn chính mình đã quan ngại mãi từ khi
phải bắt đầu cho mượn cuộc đời đến nay Thành vẫn chưa biết phải làm sao…
Cơm độn không đủ no, ngày trời không thể bỏ, sáng chiều cứ thế nuốt nghẹn
từng ngày, mỗi con người một ốc đảo tự chôn dấu, hủy diệt dần mòn tư tưởng tự
do và tình yêu nhân loại để nghe hứa hẹn một tương lai xa tít mù khơi. Con người
như đang moi lỗ, làm hang sống riêng một cõi! Ngày ngày Thành càng muốn làm chiếu
lệ, dốt nát mặt ai. Thành biết mình đã bắt đầu thay đổi, một điều mà lương tâm
nghề nghịệp xưa nay chưa bao giờ tự cho phép. Đành thôi! Tâm tư thì bị ức chế,
xung đột, còn thân xác này thì ốm đói vì thiếu ăn. 13 kg gạo độn khoai, 2 lạng
thịt, một thìa bột ngọt…cho cả gia đình hai vợ chồng, bốn đứa con; vừa dạy học Thành vừa phải đốn củi,
trồng rau, còn phải tập nghe các từ “cách mạng”, thử hỏi còn “phấn đấu, khắc phục
khó khăn” cái quái gì chứ!
Một hôm khác, một học viên tên X – cán bộ chính trị nhân lúc tạm nghỉ giữa
giờ cố ý kể cho Thành một câu chuyện đời tư cách mạng của anh ta:
- “…
Hồi ấy tôi đang học lớp ba; tôi được thầy khen là học sinh ngoan; tôi được thầy
rất yêu thương và quan tâm giúp đỡ nhưng thầy ấy không hề biết tôi đã âm thầm
theo cách mạng. Một hôm tôi nhận lệnh theo dõi và thấy thầy ấy chơi thân với
các sĩ quan Ngụy, tôi nhắc thầy nên lánh xa những kẻ ấy nhưng thầy hỏi lại tôi
tại sao. Tôi ấp úng vì không trả lời được. Thầy không biết gì về tôi, thầy chỉ
dạy tôi không nên chen vào chuyện của người lớn. Nhưng sao tôi thấy không yên
tâm. Tôi hỏi ý cán bộ và sau đó nhận lệnh cấp trên để thi hành nhiệm vụ bí mật.
Đồng chí biết nhiệm vụ tôi sắp làm là gì không?”
- Không, hoàn toàn không đoán được.
Thành trả lời.
Anh ta tiếp:
-“...
Một chiều trời nhá nhem tối, tôi dụ thầy ấy ra giúp tôi một việc, thầy ấy nhiệt
tình, không từ chối và chẳng nghi ngờ gì. Thế là tôi đã lập được công đầu, nộp
thầy cho tổ chức và sau đó thầy không bao giờ về nữa…”
- Hay nhỉ!
Khắp người Thành như nổi gai ốc; tim Thành muốn rụng và Thành chỉ trả lời
được chừng đó. Thành vội xem đồng hồ và gọi tất cả vào lớp tiếp tục cho hết buổi.
Thành học được một bài thực dụng có giá trị. Câu chuyện em học sinh ngoan bây
giờ là một lời đe dọa cảnh báo: “Nhớ đấy!
Thời đại đã đổi mới, lương tri và tình người không là gì cả. Hãy rán mà giữ mạng!”
Đêm hôm ấy có tiếng gõ cửa nghe nhặt như có người cần gặp gấp. Thành giật
mình, tỉnh giấc khi vừa thỉu thỉu. Chiếc đèn dầu hột vịt từ lúc tắt đến giờ hãy
còn âm ấm. Sớm thế! Thành nghĩ không lẽ
đến lượt mình! Dù sao thì Thành cũng phải ra xem. Thì ra không phải như Thành
nghĩ. Ông Hiệu trưởng muốn gặp và nhờ Thành viết gấp một bài về phương pháp và
kinh nghiệm giảng dạy văn, toán cho người lớn tuổi để sáng mai nhà trường đi nộp
lên sở giáo dục. Thành tần ngần. Tại sao gấp vậy và tại sao lại là Thành trong
lúc có rất nhiều thầy cô là đoàn viên, đảng viên từ Bắc vào? Hình như đã đoán
biết Thành sẽ hỏi nên anh ta bảo: “…vì tin ở khả năng của đồng chí – không dấu
gì, thời gian qua “Trên”- nhà nước đã biết trình độ kiến thức và chuyên môn của
các đồng chí ở trong Nam hơn hẳn ở miền Bắc và “Trên” cũng xem đây là dịp thử
thách! Thành giữ chắc nguyên tắc của mình là thật giả không vội khẳng định để
khỏi phải bị sụp hầm và đặt biệt quyền hành, danh, lợi tuyệt đối không màng để
giữ lại chút độc lập cá nhân, tránh bị xỏ mũi. Dù sao thì Thành cũng phải nhận
lời. Thật khổ cho cái biết! Thành phải làm việc từ mười giờ đêm đến gần sáng dưới
ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu hôi có cái bóng bằng quả trứng vịt.
- Ba rửa mặt chưa? Bé Dung hỏi Thành.
- Rồi chứ! Con chuẩn bị nhanh lên kẻo trễ
học.
- Ố! Ồ!... Sao mặt ba giống con mèo, còn
lỗ mũi giống hai ống khói vậy? Con nhỏ bụm miệng cười rúc rích…
Hôm nay, Thành được biết nhiều hơn về một nữ học viên khi ông Hiệu trưởng
trao xấp bài viết của Thành cho cô mang về Phòng Giáo dục. Trưởng Phòng là một
người đàn ông già háp, má cóp, răng hô, da men mét héo hon, thân hình khẳng
khiu, ốm nhách, bên hông lúc nào chiếc radio cũng mở tong tỏng. Ông thường lèo
khèo trên chiếc xe đạp mới tậu ở trong Nam. Trông ông như người mắc bệnh ho lao
hay ít ra cũng thiếu dinh dưỡng lâu lắm. Đó chính là cha của cô. Ông ta là cán
bộ tập kết mới về còn cô thì sinh ra và lớn lên ở miền Nam. Thân hình cô khá đầy
đặn, thướt tha và hình như không giống cha cô chút nào. Dáng cô nhiều lắm chừng
trên hai mươi tuổi. Làn da cô trắng hồng, mịn mà, chưa ướm màu son phấn. Khuôn
mặt cô khá có duyên với chiếc răng khễnh một bên dễ gây cảm tình khi cô ta nhếch
mép mỉm cười và cái nét ngây thơ trong trắng hồn nhiên của cô gái miền nam hãy còn
dễ nhận ra. Cô rất ít nói, nhu mì và chắc chắn chưa từng nhuộm máu cách mạng,
du kích hay cán bộ như tập thể lớp học. Sự khác biệt làm cho cô trở thành học
viên nổi bật, khiến cô gần gũi với Thành hơn. Cũng ở đó cô ta thường bị Thành bắt
gặp những cái nhìn trộm và những nụ cười gửi gắm cảm tình đặc biệt khó tả hay sự
e thẹn khi Thành đến gần để xem bài, hay giúp đỡ cô. Thành có cảm tưởng cô như
một cánh hoa vừa đẹp vừa hiếm của một loại cây xương rồng (cactus) đang ở vùng
sa mạc hoang dã, chung quanh đầy đá sỏi và gai độc. Dần hồi cô thay đổi lối ăn
mặc như có ý muốn thoát ly khỏi dáng một cô gái từ gia đình ‘cách mạng’. Cô đổi
chỗ ngồi với bạn để được ngồi ở đầu bàn gần lối đi. Ngày qua ngày, cảm tình của
cô đối với Thành càng đặc biệt khác thường khiến Thành bắt đầu e ngại. Một hôm
lúc thuận tiện nhất, Thành giật mình khi nghe cô nói với giọng thật êm nhẹ thì
thào rót vào tai Thành:
- Thầy đừng gọi em là “đ.. chí” nữa, cứ
gọi em Hà được không?
Bất ngờ quá, Thành chỉ gật gật rồi đánh trống lãng.
Trời ơi, thế là chết rồi! Tại sao lại như thế
được chứ! Thành lo lắng: ở đây như cái kho đạn, mà mắc nạn đào hoa thì mày chết
chắc! Thành không có tội gì nhưng biết ai để phân trần đây!
Quả thật sự nghi ngờ đã bắt đầu râm ran trong lớp. Thành bắt gặp nhiều cặp
mắt nhìn Thành không dấu được vẻ tò mò. Tội nghiệp cho cô bé “đồng chí” học
trò! Thành càng cố tránh thì hình như cô càng nóng lòng xông tới. Hôm nay nhờ
Thành giải toán, ngày mai nhờ giảng văn với những câu hỏi vu vơ… và còn có những
cử chỉ khác thường. Để giải nguy, Thành nhờ “Tiên cô” – Thành thường gọi vợ
mình như thế vì cái đức hiếm có của nàng. Một hôm, “Tiên cô” chở mấy đứa nhỏ đến
thăm Thành khi anh đang dạy học. Thành dễ dàng xua đi những nghi ngờ và hy vọng
thoát nạn nhưng mặt khác thì mấy hôm sau cô bé “đồng chí” ấy buồn không muốn
nói rồi tự bỏ học. Thành tiếp tục lo lắng dù chỉ vướng cái tội trời sinh là có
số “đào hoa”. Thành không ba hoa chích chòe, làm dáng hay phải khổ công tán tỉnh
nhưng quái lạ, tự nhiên được nhiều cô, nhiều bà dễ ngã lòng. Nhiều bạn của
Thành thường nói đùa kiểu ganh tị. Hoa đào nở trái mùa đã khiến Thành lâm vào cảnh
khó xử nhiều lần trong quá khứ trước khi lập gia đình.Thú vị chứ! Nhưng mệt lắm!
Thành có dự cảm lần này chắc là chẳng yên nữa rồi!
Một tuần sau đó, Thành được giấy gọi của Phòng giáo dục. Thành không biết
lý do gì. Trưởng phòng trước hết khen bài viết của Thành khá lắm, được phòng chọn
gửi về Sở để “thi đua” với các trường khác. Xong ông có vẻ dò dẫm hỏi Thành về
việc dạy ở trường ấy thế nào; Thành có thích không; có gì trở ngại không.
Con của ông ta học hành thế nào; Thành
có biết tại sao cô ấy nghỉ học không… Thành trả lời suông sẻ mọi câu như không
có việc gì đáng tiếc xảy ra vì sự thật trên bề mặt là như thế. Một cuộc gặp Trưởng
phòng chỉ có thế đã làm cho Thành thêm nghi ngờ. Nhưng việc gì đến tất phải đến.
Thành không tội gì phải lo. Hơn nữa Thành đã có dự định từ giã nghề này cho nên
không đến nổi phải lo ngại. Thành hy vọng sẽ bỏ lại sau lưng mọi thứ trong một
quyết định quan trọng sắp tới.
(Còn tiếp)
No comments