Vài Nét Về Giáo Dục Con Em Người Mỹ Gốc Việt
Nhân vụ bắn súng ở trường trung học
Stoneman Douglas ở Florida, Vĩnh Tường xin đóng góp bài viết này. . . .
Để hội nhập với cuộc sống trên quê hương mới, chúng ta đã phải nhanh
chóng hy sinh những truyền thống, phong tục tập quán của mình để tiếp nhận những
thay đổi. Những cái mới, những giá trị xã hội, những đặc trưng văn hóa của người
Âu-Mỹ nhiều khi đánh đổ hẳn hay làm đảo ngược những thành kiến lâu đời của người
mới di dân. Điều này đã làm cho rất nhiều cha mẹ thất vọng và hoài nghi; thậm
chí không thể chấp nhận nổi những thay đổi phong cách tương giao giữa cha mẹ và
con cái, con cái với tha nhân. Phản ứng có thể là chấp nhận thầm lặng đau khổ,
bỏ mặc, buông xuôi hoặc nệ cổ, cưỡng bức con em tuân thủ và gìn giữ những khuôn
phép được cho là có giá trị truyền thống…
Những phản ứng nhất thời hoặc bằng phương thức có chủ tâm nhưng không
thích hợp đã làm cho cả hai bên - cha mẹ và con cái phân cực và hệ quả là cùng
leo thang chấp tranh, xung đột, thất bại và đau khổ. Trước khi đi sâu hơn về những
khó khăn trong việc giáo dục con em chúng ta trong thời đại này mà gần nhất là ở
nơi ta đang sống có lẽ chúng ta nên biết vài khác biệt về đặc trưng văn hoá của
chúng ta và của người bản xứ.
Người Mỹ rất hiếu khách và tôn trọng nhân bản có thể nói là nhất thế giới;
họ rất sẵn lòng hướng dẫn, giúp đỡ bất kỳ ai khi cần và sự đáp lại chỉ là hai
tiếng cảm ơn thông thường. Đây là thói quen nổi bật trong trong tương giao của
người Mỹ - khác với quan niệm bám rễ trong tương quan của số đông người Việt:
làm ơn để “tích phước”, giúp đỡ người vì nghĩ đến ngày mai sẽ được phúc đáp lại!
Trong giáo dục điều này có hẹp hòi, gò bó không, mỗi người chúng ta tự thẩm định
lấy. Ngay cả đối với thú vật người Mỹ cũng tỏ ra rất nhân đạo; họ rất coi trọng
bình đẳng và tự do cá nhân; họ có lối sống coi trọng thời gian và kế hoạch; họ
có tác phong công nghiệp; họ coi trọng “giấy trắng mực đen”; họ có tập quán dựa
vào luật pháp - họ rất tin tưởng ở luật pháp và hiếm khi thấy họ bỏ thời gian
mong chờ sự phân giải bằng lẽ phải thông thường, bằng lương tâm. Họ đã có trình
độ dân trí, ý thức tự giác và tinh thần trách nhiệm cao; là công dân thuần thành
trong xã hội có nền văn minh dân chủ pháp trị vững vàng nhất thế giới.
Trong khi đó người Việt chúng ta đã được
hun đúc nhiều đời bằng nền văn minh lễ trị; nay chúng ta lại đổi đời cùng sống
chung, chập chững trong xã hội mới – xã hội có nền dân chủ pháp trị. Người Việt
trên dưới 90 % dân số sống bằng nông nghiệp trong thời gian khá dài. Bên ruộng
đồng, làng mạc, bên núi rừng, sông biển thiên nhiên, chúng ta sống gắn bó với
nhau bằng tình làng nghĩa xóm đầy tình tự dân tộc. Trước đây chúng ta sống với
nhau trong suốt chiều dài lịch sử bằng ngũ đức (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), bằng
lương tri, bằng tình đồng bào; và luật pháp đối với người Việt thường được xem
là thứ yếu. Chính vì vậy mà hầu hết chúng ta ít nhiều còn thói quen thường mong
chờ ở tha nhân tình cảm thông nhân loại và sự phán xét của lương tâm; khổ nỗi
lương tâm không có điều khoản, số mục và mức độ thưởng phạt thì lấy đâu mà luận!
Với quan niệm này, ở một nơi mà “Thì giờ là tiền bạc” (Time is money) chúng ta
sẽ trở nên hụt hẫng, ngỡ ngàng. Về quyền lợi thực dụng thì chúng ta có thể
không kịp người nhưng sự khác biệt này không hẳn là điều tệ hại mà ngược lại
đây mới thật sự là văn minh – đó là văn minh tinh thần đáng cho chúng ta tự
hào. Nhưng vẫn có điều kiện là mỗi người phải tự chủ, độc lập, biết điều nên lấy
cũng như nên bỏ. Không vì môt lý do gì mà đổ đi tất cả để a dua, nhất thời theo
đà suy thoái đạo đức hiện nay để đổi lấy vị thế chính trị đảng phái. Ít nhiều, đây chính là chút dư âm của nền văn
hóa bốn nghìn năm, là đặc trưng của dân tộc Việt. Người ta thường bảo giáo dục
con em giữ gìn văn hoá dân tộc nhưng giữ cái gì và giữ như thế nào quả là một
câu hỏi lớn, vì con em chúng ta đang sống và lớn lên ở đây.
Vì nhu cầu trật tự, an bình xã hội người ta không ngừng đặt ra hàng khối
luật lệ trong khi hàng ngày sống chung với nhau chỉ bằng lẽ phải thông thường
(common sense). Do đó sự đóng góp nhiều nhất vào căn nguyên an bình, vẫn luôn
luôn thuộc về những ai còn lương tri mẫn nhuệ và có lương năng cao.
Thật vậy, thông thường không phải ai cũng hiểu hết, nhớ hết luật lệ. Luật
pháp nghiêm minh dựa trên nền tảng công lí và sự bình đẳng, ý thức quyền lợi đi
đôi với nghĩa vụ và ý thức trách nhiệm của người dân là những điều căn bản và
thiết thực để có được trật tự xã hội. Nhưng luật lệ có hay đến mấy cũng không
bao giờ đáp ứng được hết nhu cầu mang lại an lạc cho cá nhân, vì dù sao nó cũng
vẫn từ bên ngoài, là biện pháp thuộc xã hội nhằm sửa trị, lập lại và duy trì trật
tự. Trong khi đó nguồn gốc của sự xáo trộn bất an là do ở chính con người – đó
là lương tri bị bít lấp.
Con người sống chung với nhau qua ý thức về lẽ phải thông thường, căn bản
lương tri – là ‘common sense,’ chứ không ai hiểu biết luật lệ trước để dựa theo
đó mà xử thế tiếp vật. Bất kỳ ở đâu, vào thời điểm nào, sự thiếu mất căn bản
này đều tạo nên sự dựa hẳn vào luật pháp. Trong cuộc đua tìm hạnh phúc, con người
đã tự làm khó cho mình bởi nơi đâu có lòng tham lam lợi lộc, danh vọng và quyền
uy; có đố kỵ, căm thù; có trí trá, gian manh, si mê lầm lạc ở chốn thị phi thì ở
đó có mâu thuẫn, xung đột, chấp tranh, va chạm, sợ hãi, dằn vặt, thống khổ. Hạnh
phúc không phải chỉ bị những chướng ngại do chính con người tự đặt trên mặt đường
ngay từ bước đầu mà còn tự tàn phá bên trong của chính mình. Con người vẫn
không ngừng chế thắng lẫn nhau bằng những khe hở của luật pháp. Thế nhưng, cuộc
sống quay cuồng bởi nhu cầu vật chất, và những nỗi sợ hãi không rời đã khiến
cho lương tri con người và luật pháp thường đặt lên bàn cân chọn lựa đóng và mở.
Nếu bằng luật pháp mà giành được phần thắng về mình thì con người ngày nay rất
sẵn sàng đóng cửa lương tri! Con người ngày nay có khuynh hướng theo cái đúng
giả tạm từ bên bên ngoài – chính là luật pháp hơn là lương tri. Thật vậy, sự quán chiếu soi rọi lời nói và
hành vi nhất cử nhất động trong xử thế tiếp vật của mình hầu như chỉ còn là việc
làm của các thiền giả hay các nhà tu!
Ngày nay, ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, khoa học kỹ
thuật phát triển tột đỉnh phi thường gần như có thể nuốt chửng thời gian và cả
ý nghĩa cuộc sống của con người. Con người đang có nguy cơ bị máy móc hoá ngày
càng cách ngăn và tình yêu thương có thể ngày càng trở nên chai lì, khô cạn. Những
ai còn giữ được căn bản đạo lý làm người – cốt lõi của đức nhân [Nhân: (仁) theo
từ nguyên gồm chữ nhân (人) là người và nhị (二) nghĩa là hai] mà các nhà hiền triết đã nhắc đến là khoan hậu,
tín nghĩa, cần mẫn và từ ái - là sự tương tác hài hoà, bình đẳng, yêu thương và
quí kính, có người có ta, có ta có vật và phải chính trực, thẳng thắn, thì
không mấy khi phải đối đầu với những rắc rối phiền nhiễu khó hoà giải trong
tương giao, hoặc ít ra cũng góp phần tạo cho xã hội tốt đẹp hơn. Nhưng ngày
nay, chánh đạo suy vi, người ngay gần như không còn chỗ đứng. Nguyên lý hễ đầy
quá thì tràn, hễ nghiêng quá thì đổ. Con người hiện đang trên đứng trước vực thẳm,
và giáo dục nhân bản quả thật quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết, - không
chỉ riêng cho trẻ em mà cho tất cả.
Cái khó khăn lớn nhất trong việc giáo dục con em chúng ta không còn ở chỗ
thiếu phương tiện vật chất, cơm áo, gạo tiền, sách vở mà nghiêng hẳn về mặt
tinh thần, nhất là đối với người Mỹ gốc Việt. Cái khó khăn mà chúng ta đang phải
đối đầu là:
Thứ nhất là sự mất quân bình giữa tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật và
giáo dục nhân văn. Giáo dục căn bản làm người tức là giáo dục “nhân đạo” có
tính tiệm tiến, cần có thời gian để thẩm thấu nhưng trong điều kiện hiện tại thật
khó hoàn thiện. Và dù ta “ngốn ngấu” cho bằng được thì vẫn không sao đuổi kịp để
lập lại quân bình với sự phát triển khoa học, đặc biệt là ở lãnh vực thông tin.
Con người phát minh khoa học kỹ thuật nhanh đến mức vượt quá sức tưởng tượng;
những thành tựu này đem lại rất nhiều phương tiện lợi ích cho đời sống nhưng dĩ
nhiên nó cũng mang theo những bất lợi không nhỏ chút nào. Đây là nguyên lý bất
biến – theo sau ánh sáng chói thì có bóng tối cũng dày. Nếu không khéo kịp thời
chỉnh đốn lại chính con người, thì những tiến bộ khoa học sẽ làm chủ và con người
buộc phải quay cuồng như chiếc máy, học hỏi để bắt kịp đà phát minh phương tiện
kỹ thuật thay vì sống hạnh phúc với ý nghĩa đích thực của cuộc đời.
Chính phủ không ngừng cải tiến ngành giáo dục nhưng hầu hết chỉ chú trọng
đến ngân sách, hướng nghiệp, chuyên môn và luật lệ để giữ gìn trật tự, ngăn ngừa
những hành vi thô bạo. Còn về giáo dục con người thì vẫn đặc biệt tin tưởng ở nền
giáo dục nhân bản tốt đẹp cố hữu đã thành nếp tương giao trong đời sống thường
nhật, chan hòa trong quan hệ gia đình và trường học. Tuy nhiên, nếu không coi
trọng những đổi thay, xáo trộn, mất thăng bằng ngày càng lớn do sự tương tác,
pha trộn xô bồ những phong tục tập quán và dị biệt tôn giáo của nhiều dân tộc
trên khắp thế giới, và nhu cầu cuộc sống vật chất thúc bách buộc phải đuổi kịp
phát minh khoa học thì chắc chắn một ngày mai không xa sẽ có nhiều vấn đề khó
khăn chồng chất.
Thứ hai là những giá trị truyền thống, tập quán giáo dục đơn sơ
thuộc dân tộc không còn mấy phù hợp và không đủ sức thuyết phục để ứng phó với
tình hình và môi trường giáo dục con em hiện nay, nhất là khi cha mẹ phải đối đầu
tiếp nhận và thanh lọc khối lượng thông tin hỗn độn, khổng lồ từ những nơi phồn
hoa đô hội đến các hang cùng ngõ hẽm đói rách bần cùng; từ nơi văn minh khoa học
tột đỉnh và cả ở nơi con người còn cuộc sống bán khai hay sống đời nô lệ dưới
các chế độ chính trị phi nhân.
Thứ ba, là cha mẹ chẳng những
thiếu vốn kiến thức về tâm lý giáo dục con em mà còn không có thời gian để
nghiên cứu, học hỏi cho nên một số không tránh khỏi băn khoăn, lúng túng về
phương hướng giáo dục con em sao cho phù hợp đôi bên, gia đình Việt nam và cuộc
sống mới bên ngoài; số còn lại không nhỏ vẫn quay về với lối cổ truyền – “yêu cho roi cho vọt,…”, nuôi dạy con em
theo thói quen như ông bà cha mẹ ta đã từng làm trong khi con em chúng ta đang
sống trong môi trường mà tương giao giữa con người chịu ảnh hưởng rất nhiều bỡi
những phong cách sống xa lạ và đa dạng. Khó khăn này đã mang lại không ít thất
bại đắng cay, chia lìa, đổ vỡ quan hệ giữa cha mẹ và con cái, khiến con em phải
rơi vào ngõ cụt không lối thoát hoặc buông mình theo bè nhóm xa rời cuộc sống
bình thường, bất chấp tương lai đen tối. Giá trị gia đình nhiều khi bị lật tung
vì đối đầu với khó khăn khác biệt văn hoá giữa các thế hệ Việt-Mỹ bằng phản ứng
không thích hợp.
Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, điều căn bản vẫn là chúng ta cần làm gì để
con em chúng ta cảm thụ được đức nhân, có tư cách tốt, phẩm chất quý để chúng
trưởng thành với tâm hồn trong sáng, vững chãi với nhân sinh quan nhân bản, vượt
qua những bản năng thấp hèn. Được vậy thì mặc cho những băng hoại nhiễu nhương
của nhân loại trong thời hiện đại, chúng ta không còn lo ngại con em chúng ta bị
lôi kéo trở nên tha hoá, hư hỏng.
Đến đây, chúng ta có thể kể sơ những con số đáng ngại về sự bạo hành bằng súng đạn ở học đường. Theo tài liệu thống kê cho thấy con số này tăng dần trong những thập niên qua. Thập niên 1960 17 vụ, thập niên 1970 23 vụ, thập niên 1980 30 vụ, thập niên 1990 40 vụ, thập niên 2000 48 vụ và thập niên 2010 mới chỉ trong vòng 3 năm, từ 2010 đến tháng 3 2014 đã lên đến con số kỷ lục 96 vụ. 2015 – 21 vụ; 2016 – 15 vụ; 2017 – 9 vụ; 2018 – tính đến nay (2/tháng 3/2018) có 7 vụ. (Theo List of school shootings in the United States)
Chính trị có thể đổ lỗi cho súng
đạn nhưng thực chất của vấn đề không phải chỉ là ở đó. Vũ khí không biết nói,
không có suy nghĩ và không thể quyết định được điều gì nếu không có những con
người tha hóa hoặc muốn chết bằng cách hủy diệt sinh mạng của kẻ khác. Một điều
vô cùng quan trọng mà ít ai để ý, đó là trong đạo trị nước, ở đâu và thời nào
mà “nhân đạo “ - đạo làm người được coi trọng thì dĩ nhiên ở đó được an bình
hơn. Riêng ở nước có chế độ độc tài, độc đảng toàn trị thì khía cạnh nhân đạo,
và vấn đề này thật khó có được một phương thức hữu hiệu, bởi vì ở đó vị trí của
“con người” trong đời này và ý nghĩa cuộc sống đã phải nhường chỗ cho chủ nghĩa
lý tưởng - nhắm đến một ngày không bao giờ tới.
Những giá trị nhân bản, lẽ phải và tình yêu, sự nối kết, quan hệ tương
giao tốt đẹp của nhân loại không dễ gì một sớm một chiều có thể xây dựng được.
Trong khi kích hoạt, nâng lên và giữ gìn thật khó khăn, tốn nhiều tâm huyết và
thời gian thì tiếc thay những giá trị ấy lại dễ dàng bị đổ đi trong phút chốc,
không nuối tiếc vì những chấp tranh và mưu toan chính trị! Quyền hành, lợi lộc, danh vọng làm cho con
người ngày càng chia rẽ, cách ngăn, xung đột, chấp tranh và thống khổ. Cái tâm
bi mẫn không còn nhạy bén, lòng trắc ẩn chai lì, khô cạn, và tình yêu chỉ còn lại
như sỏi đá trên dòng suối lấp mất đầu nguồn. Tương giao nhân loại ngày càng trở
nên khô cằn, máy móc, vận hành bởi hấp lực của quyền uy, danh vọng và lợi lộc.
Đây quả là điều đáng ngại vô cùng!
Có nơi người ta dùng sinh mạng của cả trẻ em vì mục tiêu nào đó. Một lần
- không bao giờ có nữa – đứa trẻ sẵn sàng tự nguyện cảm tử, vứt đi sinh mạng,
thịt xương văng từng mảnh, máu me vung vãi khắp nơi để giết được nhiều người
khác không cùng chí hướng và trẻ ấy được vinh danh “anh hùng”, được ghi vào sử sách
của họ. Ngược lại, ở đây phải chăng chúng ta nên dạy con em chúng ta rằng tự hủy
hoại thân xác dù một giọt máu cũng là hèn nhát; là bất hiếu; là tồi tệ; là bội
ân với cha mẹ, tổ tiên và đấng tạo hóa; dạy cho chúng không vì bất kỳ lý do gì
hay chủ thuyết nào mà tự hủy hoại. Quí trọng thân tâm là bước đầu ý thức về
mình và hạnh phúc.
Chúng ta không khỏi đau lòng trước những sự kiện ấy và không khỏi lo cho
tương lai của con em mình. Điều mà chúng ta cần là mở lối cho con cái chúng ta
nẩy mầm chân-thiện-mỹ và tình thương. Đó chính là tiêm cho chúng chất miễn nhiễm
vĩnh viễn vì tinh hoa của nhân loại.
Thật vậy trong tình thương
uyên nguyên tuyệt không có hình tướng để phân biệt, kỳ thị. Chính tình thương ấy
giúp ta nhạy bén nhận biết tức thì, thấu cảm những xung đột khổ đau của người
và chỉ có chính nó mới có khả năng thúc đẩy ta mang niềm vui đến cho họ. Nó là
thứ không phải tìm cầu, không phải luyện tập, không có tại vì, không có cho nên
và hoàn toàn không có mốc điểm thời gian. Tình thương uyên nguyên ấy luôn hiện
tiền cùng sự sống. Một khi có bất kỳ lý do, duyên cớ hay tiêu điểm gì chen vào,
tình thương ấy tức thì không còn là nó nữa.
Có khi nào bạn nghĩ rằng ta nuôi đứa trẻ vì mong mai kia khi lớn lên nó
sẽ đáp đền công ơn của ta hay không? Nếu có thì quả là một chuyện bất thường vì
đó là ‘đầu tư’ và chắc chắn đứa trẻ ấy sẽ trải qua những tháng ngày gồng gánh đắng
cay mà bạn sẽ tròng vào cổ để nó trở thành công cụ của mình. Bạn sẽ vì đầu tư
mà nhồi nhét nó vào một mô hình có sẵn mà bạn nghĩ rằng chỉ có khuôn mẫu ấy mới
tốt, mới có lợi cho bạn hay cho dù bạn nghĩ rằng có lợi cả cho nó. Bạn đừng
quên rằng nó là một con người toàn vẹn và độc lập. Nuôi dạy con vì muốn mai kia
chúng mang lại cho ta danh vọng, lợi lộc hay của tiền, quả là một sự tàn nhẫn,
vô tình và ích kỷ hơn mọi sự ích kỷ thông thường.
Con em của chúng ta không thể bị lý tưởng tương lai của chúng ta uốn nắn
vào một khuôn khổ nhất định để buộc nó “sẽ
là” trong lúc hạnh phúc của con người luôn luôn là cái “hiện là” trong một chỉnh thể độc lập và toàn vẹn. Hiểu được như thế,
chắc chắn con em chúng ta hứa hẹn sẽ dễ dàng tìm thấy thanh tâm an lạc cho cá
nhân và trưởng thành những nhân tố căn bản cho sự an bình trong nhân loại cho
dù bất kỳ ở đâu, trong thời gian, môi trường và hoàn cảnh nào.
Bây giờ bạn đã là cha mẹ ‘người ta’ rồi, chắc chắn bạn có những cảm giác
mới mà các bạn chưa bao giờ tưởng tượng được. Bạn không kể hết sự cảm kích khi
bạn có trong lòng bàn tay một sinh mạng mà bạn đã đem đến cho thế giới này.
Tình yêu thương của cha mẹ muốn trao ra cũng như trách nhiệm mà bạn muốn tình
nguyện gánh lấy, không thể nào tả hết. Bạn có nhận ra vì sao bạn thật sự cảm thấy
hạnh phúc không? Có khi nào bạn để ý đến điều này không? Hạnh phúc ấy chính là
do tình thương yêu tự nhiên trao ra không bờ bến, và một tấm lòng hoan hỉ muốn
được nhận những trách nhiệm làm sao cho đứa bé tí hon này lớn lên thành người tốt
cho chính nó - biết tôn trọng sự thật,
biết tiết chế những bản năng thấp hèn, những dục vọng, có tinh thần tự chủ, có
óc phán đoán độc lập, tinh nhạy, có tinh thần trách nhiệm, và đặc biệt là tránh
xa tư tưởng bè đảng đang rất thịnh hành trong thời đại chính trị nhiễu nhương
này. Chỉ có thế thôi. Muốn được như thế, bạn có nên thay đổi quan niệm đã từng
phóng túng, đòi thoả mãn những bản năng thấp hèn nữa không?
Cuộc đời con người rồi ra như thế
nào, phần lớn nếu không muốn nói là tất cả đều do giáo dục mà con người hấp thụ.
Giáo dục thật quan trọng cho sự chung sống an bình, hạnh phúc. Thế nhưng cha mẹ,
người đầu tiên và quan trọng nhất đến với trẻ và lãnh trách nhiệm to lớn này lại
chưa hề kinh qua cũng chưa từng học hiểu thế nào là giáo giáo dục con cái. Phải
chăng xưa nay chúng ta đã và đang làm một việc thật liều lĩnh?
Làm cha mẹ không chỉ là một bổn phận hay trách nhiệm. Nếu bạn là nhà
giáo dục, nhà tâm lý… và nếu thấy rằng mình có thừa trình độ giáo dục con cái
thì đó quả là phúc báu cho bạn, cho con em và chắc chắn sẽ mang lại lợi ích cho
nhân loại không nhỏ. Mong rằng xã hội ngày càng có nhiều người đặc biệt quan
tâm đến giáo dục như bạn.
Giáo dục con cái là một việc làm rất hệ trọng và không cùng. Và làm cha
mẹ quả thật là một THIÊN CHỨC bởi vì thật ra đứa trẻ không tuyệt đối là của cha
mẹ. Món đồ gì ta đúc nặn ra, ta cũng biết trước nó sẽ ra sao. Còn đối với đứa trẻ, cha mẹ không bao giờ có
thể trả lời được đứa trẻ mình sẽ tạo ra là trai hay gái, - mặt mũi, - hình hài,
- tinh thần của nó như thế nào và đặc biệt cả cuộc đời của nó sẽ ra sao. Cũng
như không ai trà lời được câu hỏi: Trước
khi sinh ra anh là ai?
Vĩnh Tường.
No comments