Phượng Vẫn Nở Hoa
Vĩnh Tường 01/20/2018 (re - posted)
Sau bao nhiêu năm tháng nổi trôi nhiều nơi trong nước rồi ra đến hải
ngoại, nay đến tuổi về hưu tôi có chút thời gian đi tìm lại và thăm một vài bạn
học cũ. Ngày xưa là những nam nữ học
sinh, những thằng …, những con… mà bây giờ là ông bà nội ngoại cả rồi. Tôi mang
về tâm tình của một người bạn cùng lớp ngày xa xưa ở ngôi trường Trung học công
lập duy nhất miền bắc Bình định. Trải qua bao nhiêu biến đổi lịch sử chính trị,
xã hội, đất nước và con người tổn thương tan tác, rã rời trong vận mệnh đảo
điên. Chỉ môt vài chung rượu đế của quê nhà đã khơi dây trong chúng tôi những
câu chuyện thời chung sách chung trường mà cho đến giờ này chúng tôi vẫn xem nó
như những bài học quí còn lại sau cùng khi sách vở ra đi. Nếu ai có hỏi chúng
tôi nhớ gì về những kỷ niệm thời còn học ở Tăng Bạt Hổ, chúng tôi sẽ ôn lại
những cuộc tình đơn phương vụng dại của bọn học trò choai choai ở tuổi dậy thì
đệ tứ, đệ tam hay những bài học làm người thật cô đọng có thể không do thầy cô
hay sách vở mà từ những biến cố lịch sử ảnh hưởng đến tương lai của chúng tôi
trong thời ấy cũng như những bài học của người cha đáng kính yêu.
Chúng tôi còn nhớ - không - phải nói là anh bạn tôi nhớ rõ hơn về những
ngày giông bảo, hiện tượng nhân tai bắt đầu khuấy đục cả bầu trời Việt nam làm
cho hai chúng tôi có cái nhìn thất vọng về một viễn ảnh tương lai đen tối của
đất nước và của chính mình. Vào năm
1963, học sinh các lớp từ Đệ Lục, Ngũ, Tứ trở lên bắt đầu râm ran bàn về chính
trị, càng về sau dư luận càng rộn ràng hẳn lên, dường như trường lớp đang bao
trùm bỡi một bầu không khí ngột ngạt làm cho chúng tôi thật sự hoang mang. Báo
chí không chính thức ở điạ phương, hầu hết là những bài in bằng roneo sơ sài nhưng
có nội dung thật kích động chủ yếu cho rằng chế độ Cộng Hoà thời đó là “độc tài gia đình trị và kỳ thị tôn giáo”.
Vào khoản giữa năm. Phong trào Phật giáo xuống đường bùng phát mỗi ngày một
rộng lớn, cả tượng Phật cũng bị mang ra giữa đường để tranh đấu. Nhiều bạn cùng
lớp chúng tôi hãnh diện ra trò như những người hùng, họ rất hăng hái đi tranh
đấu cho cái gọi là “tự do và công bằng xã
hội”. Sở dĩ chúng tôi gọi như thế là vì ngay trong lúc đó những người chân
chất quê muà như chúng tôi cảm giác có cái gì không ổn. Sự thật trước mắt mọi
người đang có tự do cơ mà. Kiến thức về giáo lý Phật giáo thì chúng tôi mù tịt
nhưng chúng tôi thường tâm sự dựa trên lý lẽ thông thường từ lương tri thuần
khiết và cảm nghĩ của mình. Tượng Phật phải được đặt ở nơi tôn nghiêm. Bức tượng
biểu tượng của chân lý, của những gì trong sạch, cao qúi, tốt đẹp, hạnh phúc. Tượng
Phật không biết nói. Chỉ có con người là rắc rối mà thôi. Dù nhân danh gì đi
nữa, đem tượng Phật ra đường làm bình phong để đạt mục đích khác chứng tỏ là sự
coi thường, nếu không nói là phỉ báng và do đó đàng sau chắc không phải là
những nhà sư thuần đạo, hoặc nếu quí vị linh mục đem tượng Đức Mẹ ra để ngoài đường
cũng vậy. Còn về phía chính phủ, chúng tôi cũng suy nghĩ rất đơn thuần căn cứ
vào những bài dạy đạo đức tiểu học và công dân giáo dục ở trung học chúng tôi
không thấy chỗ nào là nhồi sọ chính trị như lời tuyên truyền để phải đòi hỏi “phi chính trị ở học đường”. Về “Gia đình trị”, thật ra lúc ấy chúng tôi
cũng không rõ mấy nhưng lớp cha ông chúng tôi rất hài lòng về những chính sách
của chế độ mới, họ thấy tràn đầy cơ hội cho con cháu như chúng tôi vươn lên.
Suy nghĩ của chúng tôi đơn giản lắm, không biết thì chớ nghe lời phiến diện mà
làm càn. Chúng tôi thường chơi cờ tướng với nhau và chúng tôi biết giá trị của
những con cờ thí như thế nào. Mặt khác, chúng tôi tự hỏi có bao nhiêu người kể
cả một số “người đang dạy học” và học sinh biết gì về gia đình của Tổng thống,
hay biết được bao nhiêu về sự kiện gọi là “gia đình trị”. Hay họ chỉ là những người có lòng nhiệt tình
và yêu công lý? Nếu hành trang chỉ có
chừng ấy mà dấn thân làm cho đất nước yên bình trở nên dậy sóng, mang hâu
hoạn cho dân tộc thì quả là điều đáng tiếc! Chúng tôi bị chê là bọn nhà quê học
“gạo” môn công dân giáo dục, nhưng cảm ơn những hạt gạo ấy đã cho chúng tôi
biết được quyền hạn và trách nhiệm công dân trong chế độ tự do. Hơn nữa trước mắt trường lớp, thầy cô bạn bè
sinh hoạt đầy chất sống hàng ngày và tương lai đầy hứa hẹn đang chờ đón đẹp
biết bao! Chúng tôi thấy thất vọng như sắp mất những ngày tháng hồn nhiên và có
thể sẽ mất cả niềm tin vào tương lai của mình, thất vọng vì thế sự chừng như làm
lung lay tiền đồ của chúng tôi - những người dân quê đang vươn lên qua cửa
Khổng sân Trình. Hai chúng tôi và một số bạn khác là con nhà nông, chúng tôi
không phải là người theo đạo Công giáo hay Phật giáo nhưng bà con chúng tôi có
người theo đạo này hay đạo kia, Công gíao thì ít hơn và có đôi chút trở ngại
với tập tục, đó là điều thường tình đối với cái mới nhưng bà con chúng tôi vẫn
yêu thương nhau cũng như quí trọng các tôn giáo. Chúng tôi thấy không có lý do để
tham gia các nhóm đi phát truyền đơn, tuyên truyền, hay chuẩn bị xuống đường.
May mắn hơn nữa, chúng tôi học được rất nhiều ở bác Trần – cha của bạn tôi –
nên nhất định không nhuộm mình vào cái thế giới ấy. Ông là thầy giáo từ thời
Pháp còn ở Việt nam, bấy giờ ông là nông dân - một nông dân có học thức, có rất
nhiều ruộng; ông làm việc rất lam lũ cực nhọc. Một hôm cuối tuần tôi đến nhà bác
chơi. Nghe thấy chúng tôi kể chuyện nhà trường và đem tờ báo ra xem, bác Trần
cũng xem. Ông không có ý kiến gì cả. Sau đó ông một mực bảo chúng tôi ra đồng
đuổi chim ăn lúa và nhớ kiểm tra xem mấy con người nộm có còn làm việc tốt
không, bác còn bảo khi về sẽ có món ăn ngon do bác gái làm. Ngồi trong lều canh thật thoải mái, cái thoải
mái vô tư của tuổi mười bốn, mười sáu, chúng tôi cùng giật dây thúc mấy con
hình nộm đang đứng trơ trơ giữa đám ruộng khô bên vườn dừa, chúng nó vẫy cờ, rung thùng thiếc trông hăng hái ra phết.
“Các cháu thấy con nộm nó múa không? - Có nghe
thấy chúng gõ thùng không?”
“Thấy chứ, chúng còn tốt lắm!”
“Nhưng chúng có làm được gì nếu các
cháu không giật dây” Bác tiếp lời.
“Hơn thế nữa nếu bác không sai bảo
thì bọn cháu đâu có làm”. Tôi nịnh, nhưng đột nhiên bác vỗ tay khen! “Cháu
thông minh thật! Rất thông minh!!!”. Bác làm tôi vừa ngạc nhiên vừa lung túng
không hiểu bác định nói gì. Mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa quên kỷ niệm ấy. Bác
nói tiếp:
“Kẻ trí không bao giờ làm người nộm,
nhiệt tình của tuổi trẻ có thể xây thành trì chống giặc cũng có thể bị lợi dụng
phá thành để rước giặc vào, phá tan di sản của cha ông. Sự khác nhau chỉ là đường
tơ, sợi tóc. Như cháu vừa nói, có phải ta cần phải biết đàng sau các hiện tượng
xảy ra là gì không? Báo gì đọc cũng được nhưng kẻ trí thì xem mặt sau của tờ
giấy. Có phải khi ai bảo các cháu lên đường, cháu phải biết người ấy là ai ? Sự
thật thường rất khó nhận ra hết chân tướng.
Là người trí, các cháu còn cần phải biết con đường ấy dẫn chúng ta đi về
đâu. Cuộc đời, một chuỗi thời gian cứ ngắn dần, ghi những bước chân đi một
chiều. Một ngày, một giờ lầm lẫn chẳng những mất đứt mà còn trở ngại cho những
bước còn lại. Mỗi phút giây trong đời chỉ có một chứ không có hai. Cái đáng sợ
nhất là đem cuộc đời mình cho mượn mà không biết hay bị tráo đổi làm phương
tiện cho những hứa hẹn vào ngày mai.” Bác tiếp:
“Và bây giờ chúng ta đi ăn “bánh
thật” do bác gái làm chứ không phải “bánh vẽ” bác hứa. Tôi còn nhớ cả cái mùi
bánh gói nóng hổi bên chén mỡ hành và chén nước mắm.
Chúng tôi chuyện trò không ngớt. Loạn lạc buổi giao thời phong kiến,
pháp thuộc như thể loạn mười hai sứ quân thời Đinh, Ngô đã được dẹp tan và ổn
định mở đường cho một chế độ tự do dân chủ nẩy mầm. Tư tưởng mới, xã hội mới như
đứa bé ra đời, tám năm chập chững nhưng phải đối đầu với hàng vạn khó khăn về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… còn thêm cái gọi là “mặt trận giải phóng miền nam” cùng với những phong trào xuống đường.
Đầu tháng 11 năm 1963, ngày vui của những người xuống đường đập phá và Mặt trận
giải phóng miền Nam cũng là ngày chúng tôi hoang mang với nỗi buồn khó tả – có
lẽ là do cảm giác hụt hẫng về những hoài bão mà chúng tôi đã ấp ủ. Bạn tôi tiếp
tục nói về người cha, phải nói thêm là người thầy đáng kính của anh vừa bị bệnh
vừa suy dinh dưỡng và thiếu thuốc men trong những năm anh gọi là những năm
khoai sắn sau biến cố 1975. Ông ta đã qua đời. Di sản để lại cho anh không phải
là những ruộng vườn từ mồ hôi nước mắt và trí tuệ của cha anh dựng nên nhưng là
một kho tàng di huấn mà đến ngày nay các cháu – con của anh cũng được ảnh hưởng.
Hầu như những người còn lương tri ai cũng nhớ, tất cả ruộng vườn kể cả đất do
mồ hôi của cha ông khai phá bỗng chốc trở thành của nhà nước. Tiền bạc thì đổi
mười, đổi trăm lấy một… Tức khắc tất cả đều cùng nghèo như nhau. Chữ “tín” bị đánh sụp và lần lượt “ngũ thường” cũng ra đi! Mỗi con người trở
thành một ốc đảo, không ai giúp ai, không ai tin ai…Anh ta nhắc lại những điều
mà chúng tôi không nói hết khi thăm nhau qua điện thoại. Một câu nói của bác
Trần, chúng tôi thấy đúng mãi đến bây giờ: “Tư tưởng Marxist đi đến đâu cây úa
là vàng đến đó, ngay cả dế giun cũng không còn đất sống.” Quả vậy, những ngày cơ
cực phi lý ở Việt nam còn mãi trong chúng tôi, cùng hình ảnh những gò mối hàng
rào đều bị cuốc ra trồng tỉa kiếm thêm thực phẩm mà cũng không đủ sống, những
con dế mèn tí tẹo trốn trong hang ven bờ sông, bờ suối cũng bị đào bới, truy
tìm để làm món ăn…
Được hỏi sao các cháu đều có trình độ học vấn cả anh cũng rất thông minh
lanh lợi mà không làm ăn được khá như mấy đại gia.
- Thế anh đã thay đổi từ hồi nào mà
không hiểu chúng tôi? Anh hỏi lại làm tôi thấy chột dạ.
- Ố! ồ… chỉ chơi anh thôi mà!
- Mấy kẻ lèng tèng ở đây theo nhà nước
nay đã là đại gia tiếng tăm lừng lẫy xóm làng. Cha con chúng tôi anh biết đấy, nhất
định không cộng tác nên cam phận nghèo.
- Thảo nào ngày xưa bác Trần nhắc
chúng ta câu nói của nhà Phật: “Chớ thấy
việc ác nhỏ mà làm, chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm”. Ước gì 80 triệu
đồng bào mình cứ như anh thì đất nước này có phước biết bao!
- Hay đấy anh nhỉ! Không cần chống
phá gì cả, chỉ cần nửa nước không hợp tác thì đồng bào mình đỡ khổ, đất nước
này đã đẹp hơn từ khi Liên Xô sụp đổ.
- Còn về cái chết của Tổng thống Ngô
đình Diệm và sự sụp đổ của nền đệ nhất Cộng Hòa đã gần năm mươi năm, các tài
liệu đã được bạch hoá, anh có biết gì không?
- Dĩ nhiên là biết cả rồi. Chúng ta
có tư tưởng tự do, chúng ta có được nhân sinh quan nhân bản, chúng ta biết thế
nào là con người đúng nghĩa của nó, thế nào là trách nhiệm với gia đình và xã
hội, chúng ta biết giá trị tương giao nhân loại, chúng ta biết giá trị làm người
mà nghìn năm cha ông đã hun đúc, từng chữ từng lời, từng phong cách sống, tất
cả không phải là do chế độ giáo dục ở thời ấy mang lại cho ta thì còn do đâu
nữa. Con cái của tôi, như anh biết đấy, chữ
thì học ở trường còn nghĩa cử làm người thì tôi phải vất vả gánh
vác trong hoàn cảnh phức tạp thế nào anh biết không?
- Tôi cũng một thời trải qua như anh
trước khi ra đi nước ngoài. Tôi rất đau khổ khi nhìn thấy con mình học những
bài thuộc lòng, bài văn bài toán mà mình phải kiếm cách tránh né không tham gia
rèn luyện cho chúng. Bồi thêm thì hại con mình, bỏ bê thì chúng có ít điểm, bảo
chúng điều này hay điều kia không đúng thì coi chừng cả nhà mang họa!
Hai đứa con trai của anh vừa về. Anh giới thiệu:
- Đây là người bạn cùng lớp mà ba thường
kể cho các con nghe.
Chúng tôi chào nhau. Trông chúng rất
tuấn tú, chững chạc, thật thà nhưng vui tính. Tôi nói đùa:
- Nghe nhiều người trở thành đại
gia, danh vang đến hải ngoại, bác xem trong danh sách không thấy tên bố con của
các cháu. Bác hơi thất vọng đấy!
- Dạ bác với ba biết rồi mà còn thất
vọng gì chứ! Trong thời đại này nhà nào còn dây *“ngũ thường” và ba cái *“bất
năng” thì làm gì giàu được hả bác! Qua ngày là được rồi bác ạ.
- Trời! Cháu hay lắm. Cảm ơn cháu!
Tôi vừa ngạc nhiên, thán phục một cách chân thành. Quả thật bạn tôi đã giữ được
một gia đình trong sạch, giữ được tiêu chuẩn làm người ở các cháu trong thời
đại nhiễu nhương, xã hội băng hoại này. Tôi không biết có bao nhiêu bạn được như
anh nhưng chúng tôi nghĩ chắc ngoài kia không ít học sinh xuất thân từ những ngôi
trường mang tên các anh hùng đã góp tay tàn phá đất nước ngàn năm văn vật này. Phải
chăng đây là thời mạt pháp!
Anh tiếp tục tò mò:
- Bên ấy chắc đồng bào ủng hộ việc
phục hồi danh dự cho vị Tổng thống, người có công khai sinh và đặt nền móng cho
nền Cộng hòa miền nam? Anh cho biết khi nào họ cần đóng góp, tuy nghèo nhưng
tôi cũng muốn đền …Tôi cắt ngang anh khi thấy lòng mình se lại. Tôi phải trả
lời sao đây?!
- Đáng quí thay một tấm lòng! Trong
hoàn cảnh này, ở đây mà anh còn quan tâm đến việc ấy! Ta uống đi! Trí thức còn
đó nhưng người thì đang ngủ! Nghĩa còn đó nhưng
người biết ơn khó tìm!.. Chung rượu
này thay tôi trả lời cho anh tất cả… Chúng tôi hiểu nhau và cùng thở ra cho
những nổi buồn dân tộc!.. Anh xem mình còn có gì để thay đổi không khí nữa
chăng?
- Có chứ, kỳ này anh về có muốn tìm
lại chiếc sandal còn lại không? Anh cười.
Chúng tôi cùng cười sặc sụa. Để trả lời anh, tôi đứng dậy móc trong túi
ra cái USB flat drive nhét vào computer của anh và tìm một đoạn trích trong
cuốn sách tôi đang viết dở trử vào máy cho anh:
“Chiếc Sandal Còn Lại”
… “Thầy
T…, một trong những người bạn đồng nghiệp của tôi có tiếng là người có tâm hồn
lãng mạn. Nhân một hôm anh đột nhiên cáo bệnh, nghỉ dạy, tôi đến nhà thăm vợ chồng
anh. Khi gõ cửa bước vào, tôi bắt gặp anh có dáng vẻ bối rối khác thường. Tôi cảm
thấy hình như tôi đi thăm không phải lúc nhưng ngược lại anh còn nói cảm ơn tôi
đã đến thăm anh thật đúng lúc. Anh bảo tôi ngồi chơi chờ anh đun nước pha trà.
Tôi nghĩ ngay chắc có chuyện bất thường chẳng vui, tôi mỉm cười đùa với anh:
“Có cần người chữa lửa không?” Anh cũng cười theo với vẻ hồn nhiên như thường lệ,
nhưng anh cố ý nói to hơn: “Thầy ngồi chơi nhé! Liên đang bận ở đàng sau không
lên chào thầy được”. Một lác sau, chúng tôi cùng uống trà anh mới từ từ tâm sự:
“Thời gian tiếp khách hy vọng có thể giúp giảm bớt căng thẳng giữa hai chúng
tôi vì một chuyện có thật xảy ra từ lâu. Chuyện mà tôi thấy đơn giản thường
tình nhưng Liên lại nghĩ rằng tôi thiếu chân thật nên cả tuần nay anh biết đấy,
quan hệ của chúng tôi trục trặc chẳng vui.
Lúc còn học trung học, tôi có người bạn học tên Hương phải nói cô là một
nữ sinh đẹp nhất ban C. Hai chúng tôi quen nhau thật lâu. Tuy chưa tỏ tình
nhưng qua thời gian và mức độ quan hệ, qua ánh mắt nụ cười, chúng tôi đã ngầm hứa
hẹn một tình yêu với bao nhiêu mộng đẹp. Rồi một ngày kia trong lúc đang học,
chiến cuộc bỗng đâu ập tới, cả trường phải bỏ chạy. Chúng tôi vừa chạy lánh đạn
vừa tìm nhau. Khi học sinh bò chui qua rào trong mưa đạn pháo khắp nơi, chúng
tôi thấy nhau. Tôi đã nhân cơ hội này mà liều lĩnh gọi đến “Anh yêu em ! Anh
yêu em! Hương à!” Hương cũng đáp lại “Em cũng vậy! Em cũng vậy anh à!”. Lúc ấy
tôi sung sướng quá, không còn sợ gì cả. Tôi chạy đại về phía Hương vừa mới té
vì vướng kẽm gai. Khi tôi vừa đến nơi thì cô đã chen chân khuất dạng trong đám
học sinh đang chạy tán loạn. Tôi không còn thấy cô đâu nữa. Súng nổ từng đợt,
tôi phải nằm xuống và thấy một chiếc sandal của Hương thường mang còn vướng
trên kẽm gai, tôi nhặt lên và nhét vội vào trong áo. Lúc ấy lòng tôi thấy thế
nào chắc anh đã biết. Nhà trường đóng cửa. Gia đình cha mẹ, anh em tôi phải gồng
gánh tản cư ngay sáng sớm hôm sau trong cảnh đạn bom đì đùng khắp nơi. Từ ấy
tôi không còn gặp lại Hương mãi đến bây giờ. Tôi giữ chiếc sandal ấy trong góc
cái rương gỗ nhỏ chứa những bộ đồ kỷ niệm của ba tôi và một số bài vở cũ, đi
đâu tôi mang đến đó. Đã lâu rồi tôi không hề mở ra cho đến khi tôi quên bẳng đi
mất. Tuần qua, chúng tôi cùng dọn dẹp đồ đạt trong nhà, vô tình Liên tìm thấy
chiếc sandal kia, và đọc được những lời yêu đương tôi ghi trên đó. Kế tiếp những
gì xảy ra thế nào chắc anh đoán biết rồi đó. Tuy tôi không làm ra chuyện gì có
lỗi nhưng Liên có phần nào thất vọng. Mặc dù Liên rất tế nhị nhưng tôi thấy thật
khó ở làm sao ấy.
Nhân lúc chị Liên vừa ra chào, giả vờ tự
nhiên, tôi bảo: “Nếu lòng anh không phải hoàng tử chờ giai nhân thử sandal thì
thỉnh tội với chị rồi khai tử chiếc sandal ấy và cho vào xọt rác là xong chứ
gì!...Quả thật là chuyện nhỏ, nhưng kể từ khi va chạm thực tế bạn của tôi thay
đổi đi nhiều lắm”…
- Anh hỏi tôi còn nhớ cô Thu Hà dạy
Anh văn không? Và tôi bảo:
- Anh phải đổi lại câu hỏi là chừng
nào tôi mới quên cô Thu Hà thì mới đúng vì tôi còn nhớ đến chiếc sandal của người
con gái trời sinh cái nét quyến rủ ấy là tôi còn nhớ và kính yêu cô. Có lẽ vì
thích nhìn chúng tôi ngượng nghịu nên giờ thực tập nào cô giáo cũng gọi hai
chúng tôi làm mẫu khiến cả lớp quỉ quái vỗ bàn, gõ thước ầm cả lên. Thật tình
tôi khó mà quên được đôi mắt to, đen lay láy với hàng mi cong và đặc biệt là
nốt ruồi thật duyên dáng bên má phải một khuôn mặt trái xoan đầy đặn và trắng
hồng. Trong khi đối thoại, mỗi lần đôi mắt ấy mở to nhìn tôi và đôi môi đỏ mọng
mấp máy chực mĩm cười là bài vở của tôi rụng đâu mất hết. Thế mà cô giáo cứ tha
cho tôi khiến cho tôi tự ái và quyết tâm học tập nhiều hơn. Nhờ đó mà tiéng Anh
của tôi mỗi ngày một khá hơn.
Hy vọng những lời thăm hỏi và cảm ơn chân thành đến cô Thu Hà như những cánh
phượng năm xưa nhuộm thắm tình thầy trò gửi tặng người thầy đã dành cho chúng
tôi những ngày thật đẹp của tuổi thơ hồn nhiên và khó quên, khó quên cả ngôi trường
cũ nhất là mỗi khi nghĩ đến cây phượng bên văn phòng nở hoa. Hoa lại nở mãi
trong lòng.
Vĩnh
Tường
-2012
* Nhân – Nghĩa – Lễ - Trí – Tín, năm điều căn bản trong đạo
làm người đã trở thành tập tánh của người dân Việt tồn tại đến năm 1975
* Phú qúi bất năng dâm. Bần tiện bất năng di. Uy vũ bất năng
khuất - Ba điều căn bản trong phẩm hạnh của người quân tử
No comments